Thăng Long (chữ Hán: 昇龍) là kinh đô của nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung Hưng (1010 - 1788). Năm 1010, tương truyền khi vua Lý Công Uẩn rời kinh đô từ Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long , hay "rồng bay lên" theo nghĩa Hán Việt. Đây là một cái tên quá đẹp. Nhất là con rồng không chỉ thể hiện sức mạnh cho một vương triều mà còn thể hiện sức sống của đất nước. Hơn thế nữa, đối với một quốc gia nông nghiệp như nước ta, rồng là con vật linh thiêng gần gũi với nền văn minh lúa nước. Tóm lại, cái tên “Thăng Long” là cái tên đẹp, vừa có bề dày lịch sử nghìn năm vừa là hình tượng đầy sức sống, thể hiện ý chí vươn lên của người Việt.Hai chữ Thăng Long vẫn ở sâu trong tâm thức người Việt Nam chúng ta, nhất là khi gợi nhớ đến bề dày lịch sử và quá khứ hào hùng. Câu thơ “Từ thủa mang gươm đi mở cõi - Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” đã nói lên cái tâm thức ấy... Ngày nay tên Thăng Long còn dùng trong văn chương, trong những cụm từ như "Thăng Long ngàn năm văn vật"... Năm 2010, là kỷ niệm 1 thiên niên kỷ của Thăng Long– Hà Nội. Kinh thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế kỷ 10, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây dựng, chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076... Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.
Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh, Thăng Long thuộc tỉnh Hà Nội. Tỉnh Hà Nội có 4 phủ, 15 huyện thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Tây Sơn, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam.
Hà Nội là tên đặt theo định vị địa lý (khá phổ biến ở Trung Hoa nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy ;lại cũng có người giải thích là nó được ôm gọn vào trong cái vành tai của con sông Hồng còn có tên gọi là “Nhĩ Hà” (sông có hình tựa cái vành tai). Dường như hoàn cảnh và ý nghĩa của sự chuyển đổi từ cái tên rất đẹp là “Thăng Long” thành cái tên “Hà Nội” chứa đựng sự giảm thiểu, sự hạ cấp vị thế và ý nghĩa của tên gọi cái không gian vốn được Lý Công Uẩn xác lập như một sự khai mở cho thời đại phát triển của kinh đô một quốc gia đang tự chủ và tự tin vươn lên bên cạnh một quốc gia và cũng là một nền văn minh khổng lồ ở phương Bắc. Nền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ 19 cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân...[24] Ngay cách đặt tên này cũng có phần khác thường, không theo thông lệ mang tính truyền thống là sử dụng các mỹ tự xoay quanh mấy ý nghĩa như thể hiện khát vọng: ví như sự yên ổn (An, Yên, Bình, Định, Ninh, Thuận...), sự giàu có, lâu bền (Phú, Quảng, Vĩnh...)... Có người cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử ( Thiên Lương Huệ Vương ) : "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ tức ư Hà Nội" ( nghĩa là : Hà Nội bị tai hoạ thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội ). Nguyên ở Trung Quốc thời Mạnh Tử ( thế kỷ III tr.CN ) phía bắc sông Hoàng gọi là đất Hà Nội, phía Nam là Hà Ngoại. Vùng đất Hà Nội ấy nay ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sông Hoàng khi tới địa đầu tỉnh Sơn Tây ngày nay thì chạy theo hướng Bắc - Nam, trở thành ranh giới giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Sơn Tây ở phía đông sông Hoàng nên thời cổ có tên là đất Hà Đông, còn Thiểm Tây là Hà Tây. Thực sự cũng có việc dùng câu sách Mạnh Tử nói trên, nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, người ta mới dùng tên Hà Đông ( dựa vào tên Hà Nội đã có từ trước )
Tất cả điều đó cho thấy cả 2 cái tên “Thăng Long” và “Hà Nội” đều chứa đựng những giá trị chung của một mảnh đất nhưng cũng lại có những giá trị riêng của những thời kỳ lịch sử mang tính liên tục và kế thừa.
Quả thật với cảm xúc, ta rất ủng hộ cái tên “Thăng Long” được tái lập lại như để nối mạch cho một dòng chảy liên tục ngàn năm. Nhưng nghĩ đến tên gọi Hà Nội với bề dày tuy chỉ hơn một thế kỷ rưỡi trong đó có hơn 60 năm là Thủ đô của nước Việt Nam hiện đại