-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’-
Chúc mừng bạn đã đăng nhập thành công. Xin chờ giây lát để trở về trang chủ forum.
-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’-
Chúc mừng bạn đã đăng nhập thành công. Xin chờ giây lát để trở về trang chủ forum.
-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’-
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTrang Chính  Đăng kýĐăng ký  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Lưu ý: Gõ Tiếng Việt có dấu, viết đúng chính tả
 Bá Khả (3384)
 >>>lonely<<< (1710)
 quythanhkhuu (1304)
 kendy_girl202 (1043)
 truc_quynh_1994 (885)
 peheophuthuy (767)
 [A]chijioltiz[o] (711)
 Svat_94 (536)
 [P]....[lẶng]im..... (495)
 Su_147617 (426)

Share | 

 

 Tiếu ngạo Trung Hoa

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tiếu ngạo Trung Hoa EmptyMon Nov 08, 2010 11:51 am

Su_147617
.♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Su_147617

Tiến Sĩ
Tiến Sĩ

http://hocscinhbentre.ifno
Giới tính : Nữ
Cung : Bò Cạp
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 426
Tài khoản Tài khoản : 608
Được cảm ơn : 27
Sinh nhật Sinh nhật : 30/10/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : chỗ tui ở :D
Châm ngôn Châm ngôn : .♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Level: 29 Kinh nghiệm: 426%
Sinh mệnh: 426/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Tiếu ngạo Trung Hoa

 
Tiếu ngạo Trung Hoa
Ưu Đàm Hoa

Hồi 01

Trung Thu Nam Hải cuồng phong khởi
Thủy thượng ba đào hữu mỹ nhân


Miền duyên hải phía Nam và Đông Trung Hoa có mùa mưa bão kéo dài từ tháng năm đến tận tháng mười một, nhưng dữ dội nhất là ba tháng bảy, tám, chín. Những cơn bão nhiệt đới này xuất phát ở Nam Hải, di chuyển theo hướng Tây và Bắc vì vậy, ảnh hưởng từ Quảng Châu cho tới vịnh Liêu Đông. Tất nhiên, địa phương đầu tiên gặp bảo chính là đảo Hải Nam, vùng đất cực Nam Trung Hoa.

Tiết Trung Thu vừa rồi, một cơn cuồng phong mãnh liệt đã thổi bay mấy chục mái lá đơn sơ trong thôn chài Dương Sa ở mạn chính Đông Hải Nam. Một trong số những nạn nhân ấy là chàng trai già Nam Cung Bột.

Nam Cung Bột nổi tiếng khắp thôn Dương Sa vì nhiều lý dọ Thứ nhất là bởi gã có thân hình vạm vỡ, sức khỏe phi thường, tài bơi lội thuộc hàng thượng thặng. Thứ hai, gã là người nghèo nhất thôn chài. Do vậy, dẫu đã ba mươi tám tuổi rồi, Nam Cung Bột vẫn phòng không chiếc bóng!

Phải nói thêm rằng Nam Cung Bột có hai tật xấu nho nhỏ. Là uống rượu như hũ chìm và sức ăn gấp năm, gấp bảy người thường. Suốt đời gã làm không đủ ăn thì còn nuôi nổi ai nữa?

Các nữ nhân chưa chồng trong thôn luôn rạo rực dán mắt vào những bắp thịt cuồn cuộn trên cơ thể Nam Cung Bột, nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện lấy gã! Chàng trai già của chúng ta cũng biết phận mình nên chỉ nheo mắt đưa tình, hay nhoẻn miệng cười duyên chứ không dám tán tình ai cả!

Thực ra, Nam Cung Bột không hoàn toàn cô đơn vì trong thôn có khá nhiều quả phụ. Năm nào cũng có một hai ngư dân bỏ mạng ngoài biển khởi, để lại người vợ và bầy con nheo nhóc. Thỉnh thoảng, Nam Cung Bột đến thắp hương cho những người bạn xấu số và an ủi thê tử của họ. Tấm lòng tốt của gã đã khiến góa phụ cảm kích đến nỗi lôi xộc Nam Cung Bột vào buồng! Tuy nhiên, ngay cả những người đàn bà không chỗ nương tựa cũng chẳng dám lấy gã, vì sợ bầy con của mình sẽ chết đói! Tật tham ăn của gã khiến mọi người chán ngán!

Nghề biển không giống với nghề nông vì chẳng thể dựa vào sức lực mà cày sâu cuốc bẫm, gia tăng huê lợi. Ngư dân dong buồm ra khơi, trông đợi khá nhiều vào vận may, đôi khi phải trở về với vài ba con cá chép, chẳng đủ nhét kẻ răng! Thế cho nên, Nam Cung Bột có khỏe như Hạng Võ cũng bằng thừa! Gã chưa chết đói cũng là may lắm rồi!

Vậy vì sao một đáng trượng phu sức vóc như Nam Cung Bột mà lại chịu chôn vùi cuộc đời ở vùng đất cằn cỗi, nghèo nàn này? Vì sao gã không đi nơi khác mà lập nghiệp?

Xin thưa rằng thôn Dương Sa là nơi chôn nhau cắt rốn của Nam Cung Bột, và mười tám năm trước gã đã từng vác đao đi tìm chút công danh.

Chàng trai đảo Hải Nam đã lần đến kinh đô Ưng Thiên Phủ, tức Nam Kinh bấy giờ. Hải Nam cách xa Trung Nguyên là một huyện của Quảng Đông và có nhiều dân cư thuộc các bộ tộc thiểu số Lê, Miêu, Hồi!... nên văn hóa kém cỏi, bị coi là man di, mọi rợ.

Do đó Nam Cung Bột không được người Đế đô xem trọng, kể cả bọn kỹ nữ!

Lòng tự ái bị tổn thương, Nam Cung Bột liền đại náo Kim Lăng đại kỹ viện, đánh nhau cả với bọn Cẩm Y thị vệ. Mãnh hổ nan địch quần hồ, thế là gã bị bắt.

May thay, quan Vệ Úy Lưu Chân cũng là người Hải Nam nên đã không bắt tội mà còn thu nạp Nam Cung Bột vào làm thị vệ.

Vài năm sau, Yên Vương Chu Lệ cướp ngôi Huệ Đế. Nam Cung Bột phò tá vua cũ chạy trốn, nhưng nửa đường thì lạc mất.

Thế là, Nam Cung Bột phải trở lại quê cũ là thôn Dương Sa, sống cuộc đời ngư phủ nghèo mạt rệp ngày ngày mượn men rượu để tưởng nhớ đến giai đoạn hoàng kim!

Song thân gã đã chết cả, để lại một mái nhà tranh và chiếc thuyền chài! Nam Cung bột đã dời nhà vào cánh rừng dương để được gần gũi mộ phần pha mẹ, dù gã chẳng bao giờ có tiền mua nhang!

Trận bão tháng tám đã thổi tốc mái lá, khiến Nam Cung Bột phải sửa hết ba ngày. May mà gã có thói quen vác thuyền về nhà nên phương tiện mưu sinh vẫn còn nguyên vẹn!

Hôm nay là ngày rằm tháng chín, Nam Cung Bột ra khơi. Gã chèo một mạch tám chín dặm, định đến vùng nước dồi dào tôm cá, thì nhận ra một đoàn chiến thuyền mười mấy chiếc căng buồm tiến lên hướng Bắc, đây là thuyền của quân nhà Minh đi chinh phạt An Nam trở về.

Nam Cung Bột bực bội chửi vang vì đoàn thuyền kia đang đi ngang ngư trường của gã, và vì gã không ưa vị vua hiện tại là Minh Thành Tổ Chu Lệ. Chính lão ta đã khiến Nam Cung Bột phải thất nghiệp, rơi vào cảnh khốn cùng!

Nam Cung Bột biết đàn cá nơi ấy đã chuồn mất nên không đi tiếp, buông chài tại chỗ và chỉ kiếm được vài con. Gã chán nản trở về, sáng hôm sau mới trở lại vùng biển quen thuộc!

Lần này, Nam Cung Bột xa bờ được bốn dặm thì nhận thấy một xác người đang trôi nổi trên sóng nước. Gã mừng rỡ chèo về hướng ấy, may ra tìm được chút vàng bạc hay vật trang sức của nạn nhân.

Năm ngoái, lão Trương Cẩn trong thôn đã từng gặp may, vớ được mười lượng bạc trong xác chết trôi. Lão ta chỉ tốn có năm phân để chôn cất, và lời chín lượng rưỡi.

Đến nơi, Nam Cung Bột cau mày vì nhận ra nạn nhân là một nữ lang mặc áo vải thô, chẳng hề đeo trang sức.

Tuy hơi thất vọng nhưng gã vẫn nhảy xuống đem xác lên thuyền.

Lúc cởi thắt lưng, Nam Cung Bột kinh hãi vì phát hiện nàng ta vẫn còn sống, dù hơi thở rất mỏng manh.

Gã gật đầu lẩm bẩm:

- Cô ả này thân hình nhỏ nhắn chắc ăn chẳng bao nhiêu, ta chỉ bớt vài chén là nuôi được! Thường thì ân biến thành tình, phen này ta đã có vợ đẹp rồi!

Quả thực là nữ lang này rất kiều diễm. Tuy da nhợt nhạt, tái mét vì ngâm nước quá lâu, nhưng sống mũi nàng thanh tú, mày liễu xanh đen và đôi môi nhỏ xinh xinh kia vẫn biểu hiện một nhan sắc mặn mà!

Nam Cung Bột đắc ý thổi vào miệng mỹ nhân những luồng sinh khí. Môi nàng lạnh giá và mặn chát mà sao gã cứ muốn chạm vào mãi!

Gã là ngư phủ nên thông thạo việc cấp cứu. Chỉ một lát sau đã tống hết số nước biển trong bụng nạn nhân ra. Động tác kế tiếp là phải làm nóng sưởi ấm cơ thể nữ lang, nhưng trên thuyền chẳng hề có lửa hay chăn bông.

Ngay bản thân Nam Cung Bột cũng chỉ có một chiếc quần dài cũ rách vá chằng vá chịt. Gã gãi đầu suy nghĩ tự nhủ cứu người là trọng nên cởi sạch y phục ướt át của nữ nhân rồi nằm ôm lấy, dùng sức nóng trong thân xác mình mà sưởi ấm kẻ bị nạn.

Đáy thuyền chài thường sâu hơn thuyền câu, lòng thuyền lót vạt tre ngang mạn, phía dưới sạp tre là chỗ để chứa cá tôm. Che chở cho sạp là một vòm mui sườn tre, căng bằng vải buồm khá là kín đáo.

Nam Cung Bột yên tâm ôm ấp thân hình thon thả và mịn màng ấy, mặc cho sóng biển nhồi lắc con thuyền!

Đây là lần đầu tiên được kề cận một nàng trinh nữ nên chàng trai già họ Nam Cung nghe lòng bồi hồi, xao xuyến sướng như được lên tiên!

Gã không động dục nhưng lại khao khát được vuốt ve đôi nhũ phong nhỏ nhắn, săn chắc kia. Chúng mơn mởn, thanh tân, đẹp hơn tất cả những bầu vú mềm nhão hay chảy xệ của các mụ quả phụ và bọn kỹ nữ!

Nam Cung Bột liếc gương mặt đẹp trang nghiêm của nữ lang, lòng hơi ái ngại và tự trấn an:

- Quái gì phải sợ! Đã ôm ấp thân mật thế này thì có thất lễ thêm một chút cũng chẳng sao!

Và gã run rẩy đặt bàn tay thô tháp, to như nải chuối của mình lên ngực trái mỹ nhân. Cảm giác quả là tuyệt diệu phi thường, nhưng Nam Cung Bột còn chút khí chất trượng phu nên chẳng dám kéo dài, ngượng ngùng rút tay về.

Nữ lang chưa tỉnh lại nhưng thân thể đã ấm hơn, hơi thở điều hòa.

Nam Cung Bột gật gù, ngồi lên, thò tay lấy bộ y phục treo ở kèo mui đã sắp khô nhờ gió biển, phủ lên người nữ lang.

Gã bước ra mũi thuyền, định chèo vào bờ thì phát hiện chung quanh là một đàn cá thu đông dặc. Chúng vây chặt thuyền, cứ như bị hấp dẫn bởi một sức mạnh nào đó!

Nam Cung Bột mừng rỡ quăng chài, chỉ gần khắc đã khẳm một thuyền đầy cá!

Gã mỉm cười tự nhủ:

- Cô ả này đã mang vận may đến cho ta! Làm gì có chuyện cá thu vây lấy thuyền bao giờ?

Gã phấn khởi chèo một mạch về đến bãi biển Dương Sạ Đoạn này rất vắng vẻ vì chỉ có mỗi một nhà của Nam Cung Bột, cách xa xóm chài hơn nửa dặm.

Gã nhảy xuống nước, căng bắp thịt đẩy thuyền lên bãi cát và phăng phăng kéo nó về hướng rừng dương. Thần lực này quả là đáng khâm phục.

Nam Cung Bột bồng nữ lang vào nhà, đặt lên chiếc giường tre cũ kỹ, và chẳng có lấy một manh chiếu hay tấm đệm bông.

Gã nhăn mặt tự cằn nhằn:

- Nhà cửa thế này thì chắc cô vợ đẹp sẽ chuồn sớm! Ta phải bán cá mua thêm ít vật dụng mới được!

Bỗng gã nghe có tiếng thở dài và nữ lang mở mắt ra, nói bằng tiếng Quảng Đông:

- Các hạ hãy ra ngoài để ta mặc lại y phục!

Nam Cung Bột định nói rằng mình đã thấy hết, nàng chẳng cần phải hổ thẹn làm gì. Nhưng khi chạm phải ánh mắt u buồn và nghiêm lạnh, gã chột dạ bước ra khỏi nhà, sẳn dịp xúc cá trong thuyền vào mảnh lưới cũ, mang vào trong thôn bán!

Tổng cộng có đến gần ba trăm cân cá đè nặng lên đôi vai lực lưỡng.

Người trong thôn kinh ngạc trước lượng thu hoạch quá lớn này, cao giọng khen ngợi vì chắc mẩm rằng lát nữa sẽ được mời nhậu.

Bản tính Nam Cung Bột rất phóng khoáng nên bạn bè rất đông đúc.

Song hôm nay, gã vừa rời vựa cá là đến ngay tiệm tạp hóa, mua đủ thứ vật dụng và tất tả trở về nhà chứ không ghé quán rượu.

Nữ lang áo vải xanh kia đã nấu xong cơm, còn có cả một tô canh cá thơm phức.

Nam Cung Bột đã chừa lại chục con, trong lu sành sau nhà, để làm thực phẩm.

Chén đũa mới mua đã có dịp sử dụng ngay.

Hai người lặng lẽ ăn mà chẳng nói tiếng nào.

Nam Cung Bột càng ngắm nghía, lòng càng ngây ngất trước vẻ đẹp của nữ lang.

Gã ấp úng nói:

- Tại hạ là Nam Cung Bột, ba mươi tám tuổi. Dám hỏi phương danh của cô nương?

Gã từng làm thị vệ suốt bốn năm ở Kim Lăng nên ngôn từ không đến nỗi quê mùa, thô kệch.

Nữ lang hờ hững đáp:

- Ta tên gọi Đặng Trinh Tâm, hai mươi lăm tuổi!

Nam Cung Bột có đà hỏi tiếp:

- Chẳng hay Đặng cô nương nguyên quán chốn nào, và vì sao lại rơi xuống biển?

Đôi mắt nữ nhân đang hiền hòa bỗng loé lên tia oán hận và chứa đầy sát khí, mặt nàng lạnh lùng như phủ sương mờ!

Nam Cung Bột chẳng biết sợ trời cao đất dày, vậy mà lại thấy ngán nữ nhân này!

May thay, sắc diện này đã dịu xuống.

Trinh Tâm bình thản nói:

- Sau này các hạ sẽ biết!

Nam Cung Bột cũng chẳng dám hỏi tới, buông đủa đi ra phía sau súc miệng.

Nhận thấy đống củi đã gần hết, gã trở vào nhà lấy thanh đao giấu dưới gầm giường, kỷ vật duy nhất của cuộc đời làm thị vệ!

Nam Cung Bột đi một vòng, chặt những cành dương khô, mang về chất đống sau hè! Gã làm việc cần mẫn, trên môi điểm nụ cười hạnh phúc, và hình bóng Trinh Tâm thấp thoáng trong hồn và trước mắt!

Xế chiều, con sâu rượu trong bụng bắt đầu ngọ ngoạy.

Nam Cung Bột bối rối suy nghĩ:

- Nay nhà đã có thêm một miệng ăn, ta phải bớt uống mới xong! Vả lại cô ả họ Đặng này tính tình khó chịu, thấy ta bê tha tất sẽ không ưng ý! Thôi thì ráng nhịn vài ngày, chờ ván đóng thuyền cái đã!

Gã khoan khoái vì ý tưởng tinh ranh này, tiếp tục công việc dọn dẹp quanh nhà và dựng thêm một buồng tắm kín đáo bằng mảnh vải buồm cũ.

Trước đây, Nam Cung Bột thường trần truồng tắm táp dưới giòng suối nhỏ trong rừng, nhưng giờ đây gã không muốn ai nhìn thấy cơ thể trắng trẻo mịn màng của cô vợ tương lai!

Trinh Tâm cũng cặm cúi làm việc trong nhà, quét mạng nhện, bụi bặm, xếp đặt mọi vật cho ngăn nắp. Và khi Nam Cung Bột làm xong phòng tắm đơn sơ thì nàng cũng đã nấu xong bữa tối.

Gã hoan hỉ định sà vào mâm thì bị người đẹp chỉnh ngay:

- Thân thể có sạch sẽ thì ăn cơm mới ngon được!

Nam Cung Bột sượng sùng mở rương lấy quần sạch ra suối tắm gội.

Trinh Tâm cũng đã khai trương phòng tắm mới vì người nàng nhớp nhúa bởi nước biển. Nữ nhân không có y phục nên đã thay bằng bộ quần áo cũ của mẹ Nam Cung Bột, trông rất buồn cười!

Chờ gã ăn xong Trinh Tâm nghiêm giọng:

- Các hạ tướng mạo đôn hậu thiện lương nhưng tính tình nông nổi, bồng bột, phóng túng, không phải là chỗ dựa tốt cho đời một nữ nhân! Ta sẽ ở lại đây vài ngày xem chàng có khả năng sửa đổi hay không, rồi mới quyết định việc gá nghĩa phu thê!

Nam Cung Bột nghe, tự ái sôi sục nhưng nghĩ lại rằng đối phương nói quá đúng, đành ngượng ngùng đáp:

- Tại hạ biết mình lắm tật xấu, xin cố hoàn thiện để cô nương khỏi thất vọng!

Nói xong, gã mỉm cười chua chát.

Trinh Tâm nói ngay:

- Chắc các hạ đang nghĩ đến cái ơn cứu mạng ta phải trả phải không? Ta có thể hiến thân cho các hạ để đền ơn, nhưng sẽ dứt áo đi ngay khi thấy các hạ không xứng đáng là bậc trượng phu!

Nam Cung Bột giật mình, không ngờ nữ lang lại nhìn thấu tâm can mình như vậy! Gã bối rối biện minh:

- Cô nương. Chớ xem thường tại hạ như vậy! Bột này vốn là kẻ thi ân bất cầu báo!

Gã giả đò bực bội, rời chõng tre bỏ ra thuyền mà ngồi. Gã vừa giận lại vừa thẹn, lẩm bẩm chửi đổng:

- Mẹ kiếp! Ả La Sát này quả là lợi hại! Xem ra Bột ta đã gặp khắc tinh rồi! Thân chết trôi mà kiêu kỳ, khó chịu còn hơn công chúa nữa! Bột ta thà ở vậy chứ chẳng thèm hạ mình cầu cạnh!

Nhưng dung nhan xinh đẹp và thân thể nõn nà lại ám ảnh mãi và đánh đổ câu nói hùng hổ lúc đầu!

Nam Công Bột suy nghĩ:

- Ả này kiều diễm như tiên, ăn nói mực thước, đầu óc thông tuệ, chắc xuất thân từ chốn quyền quí, có kênh kiệu một chút cũng là phải! Nếu ta không chịu nhượng bộ thì đến chết cũng chẳng có nỗi một mụ vợ đẹp như thế. Hơn nữa, họ Nam Cung nhà ta vận chưa có người nối dõi, song thân dưới suối vàng sẽ chẳng vui lòng!

Gã nghĩ ngợi vẩn vơ, nằm mơ tưởng đến người ngọc. Lát sau ngủ vùi vì một ngày làm việc mệt nhọc.

Cuối canh tư, theo thói quen, gã giật mình thức giấc, phát hiện trên người mình có tấm chăn đơn mới mua hồi trưa. Vậy là Trinh Tâm đã ra đây đắp cho gã.

Nam Cung Bột xúc động và hài lòng:

- Cô ả này trông dữ dằn nhưng đáng mặt vợ hiền!

Thấy bếp có ánh lửa, gã ôm mền đi về phía ấy, nhận ra cơm canh đã sẳn sàng!

Trong suốt tháng trời, ngày nào Nam Cung Bột cũng đánh được rất nhiều tôm cá. Gã càng tin rằng Trinh Tâm là vận đỏ của mình, càng nể sợ nàng hơn, và không dám uống một giọt rượu nào.

Thấy Nam Cung Bột mua sắm cả vải vóc, người trong thôn đoán ngay rằng gã sắp cưới vợ.

Đám bạn rượu chặn đường níu kéo, hết lời trách móc và dọa sẽ đến nhà xem mặt người đàn bà đã chiếm mất tay nhậu của họ!

Nam Cung Bột đã được Trinh Tâm dặn dò nên lạnh lùng cảnh cáo:

- Bọn ngươi mà mò đến phá hỏng mối lương duyên của ta thì đừng trách. Bột này tàn nhẫn! Đúng ngày Đại cát, ta sẽ có bữa tiệc ra mắt!

Nam Cung Bột rất có uy nên đám bằng hữu riu ríu nghe lời.

Quả nhiên hôm sau Trinh Tâm nói với Nam Cung Bột:

- Thời gian qua các hạ đã chứng tỏ mình là người có ý chí, dám vì hạnh phúc gia đình mà hi sinh sở thích của mình. Ta bằng lòng kết tóc xe tơ với các hạ, nhưng sau này, nếu các hạ quay lại tật xấu cũ, ta sẽ bỏ đi ngay!

Nàng thở dài, dịu giọng:

- Thực ra, nam nhân có uống vài chén cũng được! Song nếu lạm dụng thì con cái sẽ ngu ngốc, trì độn, chẳng đáng thương lắm sao?

Nam Cung Bột mừng rỡ cười hề hề:

- Nàng dạy chí phải! Con cháu họ Nam Cung mà xuẩn ngốc thì coi sao được! Ta hứa từ nay chỉ uống mỗi ngày nửa cân mà thôi!

Trinh Tâm quắc mắt:

- Không được! Cho đến lúc ta thụ thai, các hạ không được uống một giọt nào cả?

Nam Cung Bột xụ mặt:

- Chẳng lẽ trong ngày cưới cũng không được uống hay sao?

Trinh Tâm mỉm cười:

- Hôm ấy thì cho phép uống ba chung, nếu quá thì một tháng sau mới động phòng!

Nam Cung Bột nhịn thèm đã lâu, liền cười nhăn nhó:

- Ba chung cũng được! Đợi thêm một tháng chắc ta chết mất!

Hiểu ý gã, Trinh Tâm đỏ mặt, càng bội phần quyến rũ!

Mấy hôm rày biển động, thuyền chài không thể ra khơi, hai người quyết định nhân dịp này mà dựng nhà mới.

Nam Cung Bột đã đốn được rất nhiều cây gỗ thẳng thớm, trong khu rừng già dưới chân núi Lam Sơn gần đấy!

Mỗi ngày, bán cá xong là gã chạy ù về nhà, vào rừng tìm vật liệu, nhờ vậy mà trong một tháng đã đủ số.

Chính Trinh Tâm là người vẽ kiểu nhà, và tự tay cưa cắt, đục đẻo những thân cây, trong lúc Nam Cung Bột đi đánh cá!

Tối mười tám tháng mười, nàng bảo Nam Cung Bột:

- Ngày mai chúng ta sẽ dựng nhà, khoảng vài ngày sẽ xong. Sau đó, các hạ có thể mời những bằng hữu thân thiết nhất đến dự tiệc ra mắt vào ngày hai mươi sáu!

Nam Cung Bột phân vân:

- Mình ta với nàng làm sao kịp trong ba ngày? Hay là để ta rủ thêm vài gã trong thôn đến giúp?

Trinh Tâm lắc đầu:

- Không cần đâu! Ta với các hạ là đủ rồi!

Nam Cung Bột nhăn mặt:

- Sắp lấy nhau mà nàng còn xưng hô lạnh nhạt như thế được sao?

Trinh Tâm thẹn thùng cúi mặt, dịu giọng đáp:

- Tướng công đừng giận thiếp!

Nam Cung Bột khoan khoái cười ha hả:

- Có thế chứ!

Sáng hôm sau, ăn uống no nê xong, hai người bắt tay dựng nhà trên mảnh đất trống mé tả nhà cũ.

Nhìn Trinh Tâm vác cây cột gỗ dài hơn trượng, thân to một vòng tay, bước đi thoăn thoắt, Nam Cung Bột mới biết nàng rất khoẻ, và bộ pháp kia là của một người đã dầy công luyện võ!

Gã tự ái, ra sức đào cật lực những lỗ cột, lòng tự hỏi rằng nếu vợ chồng đánh nhau thì ai thắng, ai bại?

Đến chiều thì bốn dàn cột, gồm mười hai thân cây còn nguyên vỏ, đã được dựng lên sừng sững. Căn nhà này có ba gian chính, bếp và nhà tắm sẽ làm sau.

Nam Cung Bột ngơ ngác hỏi:

- Không có thang thì làm sao lên nóc mà bắc đòn dông?

Trinh Tâm mỉm cười, nhún chân bay vút lên, đứng vắt vẻo trên đỉnh cột cái, và nói vọng xuống:

- Tướng công hãy đưa một đầu đòn dông lên cho thiếp!

Nam Cung Bột tròn mắt sững sốt trước tài nghệ khinh công quán thế của nữ nhân. Gã ấp úng nói:

- Té ra nàng là một cao thủ trong làng võ, chẳng hay nàng xuất thân từ môn phái nào vậy?

Trinh Tâm không đáp, sẳng giọng bảo:

- Đừng nói nhiều, trời sắp tối rồi!

Nam Cung Bột bắt đầu thấy sợ, mau mắn đưa đầu gỗ lên.

Trinh Tâm nắm lấy một đầu, vung cước đá mạnh thân đòn, khiến nó bị hất ngược, vượt qua dàn cột kế cận và ngoan ngoãn nằm đúng vào vị trí.

Động tác này chứng tỏ sức mạnh của chân và quyền lực của mỹ nhân.

Cố định xong đầu bên này bằng lạt mây, Trinh Tâm đi trên đòn mà sang bên kia.

Chỉ bốn ngày sau căn nhà đã hoàn thành, tuy đơn giản nhưng rất kiên cố, vách chung quanh được ghép bằng những thân cây to cỡ bắp chân.

Sáng hai mươi ba, Nam Cung Bột chỉnh tề trong bộ y phục vải mới màu xanh nhạt, râu ria nhẵn nhụi, đi vào thôn Dương Sa tìm bằng hữu, mời họ đến dự tiệc cưới.

Người nghèo đảo Hải Nam ít khi tổ chức hôn lễ rình rang, nhất là trong trường hợp cô dâu chú rể đều mồ côi, không họ hàng thân thích. Chỉ một bữa tiệc nhỏ, mời vài bô lão cao niên và bạn bè là đủ lễ!

Nhưng việc Nam Cung Bột bỏ rượu cưới một cô gái lạ mặt đã kích động óc hiếu kỳ của mọi người trong thôn. Cả những người không nhận được thiếp hồng cũng tuyên bố là sẽ đến dự, bất chấp ý kiến của chú rể!

Tổng cộng số khách lên đến hơn trăm người khiến Nam Cung Bột choáng váng, chạy về báo cáo với Trinh Tâm!

Nàng tư lự tính toán:

- Nay chúng ta làm nhà, mua sắm đồ đạc đã cạn tiền, nhưng chẳng thể để người trong thôn chê cười được! Thiếp sẽ thay đổi thực đơn, không mua gà vịt nữa mà sẽ đãi bằng món khác!

Nam Cung Bột rầu rĩ:

- Không gà vịt thì chẳng lẽ cho họ ăn cá? Dân chài sợ hải sản đến mọc ốc, họ sẽ chửi cho đấy!

Trinh Tâm mỉm cười:

- Tướng công cứ đi theo thiếp. Món này thì khách không thể chê được!

Sáng hai mươi sáu, người trong thôn Dương Sa lũ lượt kéo đến nhà Nam Cung Bột. Họ hết lời trầm trồ khen ngợi cơ ngơi mới của gã.

Mùi thơm phưng phức từ bếp bay lên, xộc vào mũi khách, thấu tận đến ruột gan.

Tần Khải, bạn chí thân của Nam Cung Bột, hít hà nuốt nước miếng ừng ực, tò mò hỏi:

- Chẳng hay Nam Cung huynh đãi bọn ta món gì mà hương vị độc đáo thế kia?

Nam Cung Bột đắc ý đáp:

- Ấy là món thịt dê núi rất bình thường, nhưng nhờ tài nghệ của chuyết thê nên mới thơm nức mũi như vậy?

Tần Khải trợn mắt kinh ngạc:

- Ái chà! Chẳng lẽ huynh đài lại khổ công lặn lội đến đỉnh núi Lam Sơn mà bắt chúng về đấy sao?

Mọi người tấm tắc khen ngợi bãn lãnh của Nam Cung Bột. Họ quên rằng bọn Sơn Dương sống trên những vách đá cheo leo, nhanh nhẹn phi thường, trừ phi Nam Cung Bột mọc cánh, hóa thành đại bàng mới mong bắt nổi!

Chẳng qua gã nổi tiếng thực thà nên ai cũng tin!

Đám khách nữ nhân đã ào vào bếp mượn cớ giúp đỡ chủ nhà để biết mặt cô dâu.

Trinh Tâm đang tất bật cạnh năm chiếc nồi lớn, mặt mũi lem luốc nhễ nhại mồ hôi nhưng cũng đủ xinh đẹp để các bà ghen tỵ.

Nàng nở nụ cười hòa ái, thân thiện, nói lời cảm tạ bằng một giọng ngọt ngào như mía lùi, chinh phục được ngay những mụ ngư dân chất phác.

Trinh Tâm ít khi cười nhưng nụ cười của nàng lại có mị lực vô song, ai thấy cũng phải xuyến xao và sinh lòng ái mộ. Thế là đám nữ khách xăng xái phụ trợ, luôn miệng khen cô dâu hiền lành giỏi giang xinh đẹp!

Vợ Tần Khải cao giọng:

- Đại tẩu nhu mì thế này mà lão Tần Khải nhà em cứ bảo rằng đại tẩu dữ như cọp, chưa cưới đã bắt Nam Cung huynh phải bỏ rượu và bằng hữu!

Trinh Tâm cười đáp:

- Chuyết phu trước đây uống rượu quá nhiều nên phủ tạng bị tổn thương. Chư vị không thấy tròng mắt y hơi vàng và túi dưới mắt chảy xệ đấy sao? Nếu y không bớt nhậu, chỉ ít năm nữa là đoản mệnh!

Vợ Tần Khải sợ hãi bật thốt:

- Chết cha! Lão chết tiệt nhà em cũng có triệu chứng ấy, phen này phải bắt lão ta cai rượu mới xong!

Mụ góa Hồ thị vốn từng ăn nằm với Nam Cung Bột nên cay cú xen vào bằng giọng mỉa mai:

- Đại tẩu cứ làm như mình là lang y vậy?

Trinh Tâm thản nhiên đáp:

- Tiểu muội học nghề thuốc từ năm lên tám, trừ chứng nan y thì không dám nhận kỳ dư đều có thể trị được! Ví dụ như bệnh hôi nách cua Hồ thư, tiểu muội chỉ cho ba thang là tuyệt căn!

Hồ thị từ lâu vẫn khổ tâm vì cái mùi đáng sợ của cơ thể mình. Người trong thôn luôn diễu cợt mụ, và có kẻ độc miệng còn bảo rằng:

- Lão Hồ Tứ không thể chết trong bão tố, chẳng qua vì quá khiếp sợ mùi hôi nách của vợ nên đã chèo thẳng vào lục địa mà lánh nạn!

Nay nghe Trinh Tâm nói với giọng tự tin như vậy, Hồ thị cố nén thẹn thùng, hạ giọng khẩn nài:

- Nếu quả Nam Cung đại tẩu có tài y thuật cao siêu như vậy. Xin hãy ra tay chữa trị cho tiểu muội!

Hồ thị đã ba mươi sáu, nhưng theo vai vế tuổi tác của Nam Cung Bột nên phải xưng là em!

Trinh Tâm gật đầu:

- Ngày mai Hồ thư hãy đến đây, tiểu muội sẽ giúp cho!

Thôn Dương Sa chỉ có một lão lang trung già nua, chậm chạp, lại không tinh thông các bệnh đàn bà nên đám nữ nhân phải cắn răng chịu đựng bệnh tật. Giờ thì họ nhao nhao khai hết với Trinh Tâm, nhờ nàng ra tay Biển Thước.

Trinh Tâm vừa làm vừa lắng nghe và khẳng định rằng mình có đủ khả năng chữa trị.

Thế là các bà, các cỗ xem nàng như nữ Bồ Tát giáng phàm, từ bỏ vai khách, trở thành người nhà để phục vụ đám tiệc cưới.

Trong lúc nhà bếp rộn ràng tiếng dao thớt, chén bát khua vang, thì nhà trên cũng đã được bày đủ mười bộ bàn tròn, phủ vải đỏ hẳn hoi.

Hơn bốn ngàn cân cá đã đem lại cho Nam Cung Bột số bạc gần trăm lượng, một tài sản khá lớn đối với cuộc đời dân chài. Làm nhà xong gã còn hai chục lượng, do không phải mua thực phẩm nên có dư để mướn chén bát bàn ghế.

Đám nam nhân vặn vẹo hỏi han đủ chuyện, từ lai lịch cô dâu đến nhúng mẻ cá dồi dào đều dặn, và cả việc ai đã giúp gã dựng nên ngôi nhà đồ sộ dài sáu trượng, rộng hai trượng nầy?

Nam Cung Bột chỉ cười khà khà chứ không trả lời!

Giữa giờ tỵ, chén đũa và thức ăn đã được bọn nữ nhân dọn ra. Tuy chỉ có một loại thịt nấu thành năm món gồm: ba đĩa và hai tô kèm theo một đĩa rau thơm gừng, chanh, ớt, giềng!

Chẳng ai biết tên của năm món này, chỉ nhận ra đĩa dồi lòng, đĩa thịt nướng, đĩa thịt luộc và một tô thịt nấu với măng!

Mùi thơm từ hai tô nghi ngút bốc khói kia khiến trưởng thôn là Tô lão đại rút ngắn thủ tục.

Ông nuốt nước miếng, hắng giọng tuyên bố:

- Lão phu đại diện bà con trong thôn Dương Sa, chứng nhận cho Nam Cung Bột ba mươi tám tuổi và Đặng Trinh Tâm hai mươi lăm tuổi nên duyên phu phụ. Chúc hai người sống đến lúc răng long đầu bạc!

Rồi lão bảo tân lang và tân nương vái lạy bàn thờ tổ tiên, lạy lẫn nhau.

Tô lão làm nhanh đến nỗi thức ăn vẫn còn nóng hổi!

Hải Nam kém phần giáo hóa nên lễ nghi đơn giản chứ không rườm rà như Trung Nguyên. Lê thứ ở đây cũng chất phác thật thà và thô lậu. Họ ồn ào thét lên lời chúc tụng cho đủ lễ rồi ngồi ngay vào bàn.

Nam Cung Bột cao giọng mời khách cạn chung, động đũa.

Bọn Tần Khải nhao nhao mời lại chú rể.

Nam Cung Bột tiếp tân nương rồi uống một chung.

Hôm nay, chàng trai già họ Nam Cung chững chạc trong chiếc trường bào lụa xanh màu nước biển, thắt lưng hồng. Trinh Tâm cắt rất khéo nên áo bào vừa vặn, làm nổi bật thân hình rắn chắc, cường tráng của tân lang!

Nam Cung Bột vốn dĩ chẳng phải là người xấu trai, có điều mũi hơi tẹt, mắt một mí và miệng không rộng! Giờ đây, niềm hạnh phúc to lớn đã làm rạng rỡ gương mặt gã bằng những nụ cười bất tận khiến gã dễ coi hơn!

Tuy nhiên, dù gã có đẹp hơn vài phần nữa cũng chẳng thể xứng với một cô dâu trẻ măng và xinh đẹp tuyệt trần như Trinh Tâm!

Nàng thướt tha trong tấm áo hồng, cùng chồng đi các bàn để nhận tiền mừng của khách!

Thôn Dương Sa có một tục lệ rất lý thú là cho khách dự hôn lễ được thiếu nợ. Ai sẵn tiền thì đưa ngay trong bàn tiệc, ai túng thiếu thì vẫn có quyền sang sảng tuyên bố, và sau này sẽ trả hoặc cấn trừ khi con nợ kết hôn.

Ví dụ như trường hợp của Tần Khải. Mười năm trước gã cưới vợ, Nam Cung Bột không có tiền mừng nên mắc nợ một lượng bạc, đến nay vẫn chưa trả, lần này Tần Khải cười khanh khách nói:

- Tiểu đệ xin dâng lễ mừng đại huynh và đại tẩu hai lượng bạch ngân, trừ đi một lượng hôm đám cưới tiểu đệ, còn lại một lượng xin cho thiếu!

Xem ra, Nam Cung Bột mắc nợ đám cưới khắp lượt quan khách nên Trinh Tâm hầu như chẳng thu được xu nào!

Nàng tủm tỉm cười, thầm công nhận tập quán này tuy kỳ quái nhưng rất hay. Nó giúp mọi người ung dung vui vẻ đến chung vui với bạn bè mà chẳng hề mặc cảm. Phong tục này có lẽ xuất phát từ việc thu nhập thất thường của nghề ngư phủ. Có người hàng tháng không gặp may và cũng có người liên tiếp bội thu.

Thực khách hết lời tán tụng năm món ăn do cô dâu chế biến từ thịt Sơn Dương. Cho rằng trên đời này không có sơn hào hải vị nào ngon hơn được.

Do vậy họ bỏ qua việc Nam Cung Bột chỉ nhấp môi lấy lệ chứ không uống ừng ực như xưa.

Tô Trưởng Thôn vui vẻ hỏi:

- Chẳng hãy Tân Nương quê quán ở đâu mà lại biết cách nấu món thịt dê núi tuyệt diệu thế này?

Trinh Tâm thoáng đỏ mắt, ánh mắt có vẻ gì ranh mãnh và bí ẩn:

- Bẩm Tô lão bá! Tiểu nữ quê ở Hóa Châu!

Tô trưởng thôn ngơ ngác:

- Hóa Châu ở phủ nào nhỉ?

Tần Khải cười rộ, khoe khoang kiến văn:

- Lão quả là ngớ ngẩn, Hóa Châu thuộc Quảng Đông chứ đâu nữa? Lão không thấy cô dâu nói tiếng gì sao?

Mọi người gật đầu khen phải và không ngờ rằng Hóa Châu là đất của An Nam, một nước nhỏ ở phía Tây đảo Hải Nam, vừa bị nhà Minh thôn tính!

Đám nữ nhân, sau khi đem thức ăn ra cũng đã ngồi vào bàn, ăn ngấu nghiến.

Đời ngư phủ nghèo nàn, thường chỉ được ăn tôm cá, nay gặp món lạ họ vô cùng khoái khẫu, tuy không ghiền rượu như đám nam nhân nhưng việc uống vài chung là chuyện thường.

Hồ thị ngà say, bốc trong đám rau thơm một lá nhỏ hơn bàn tay, hai mặt đầy lông tơ mượt như nhung, cười khúc khích bảo:

- Loại lá Trung Tiện Diệp này trong rừng Lam Sơn có rất nhiều, nó hôi nên chẳng ai dám ăn cả! Không ngờ khi ăn chung với thịt Sơn Dương lại ngon đến như vậy!

Hải Nam ở cùng vĩ độ với đất An Nam, chỉ cách xa hơn ngàn dặm nên hệ thực vật cũng tương tự! Trung Tiện Diệp chính là lá mơ!

Quá trưa thực khách lảo đảo cáo từ và trên bàn không còn một miếng thịt nào!

Vài ngày sau, người trong thôn Dương Sa loáng thoáng nghe tin thôn Ngư Hải kế cận bị mất mười hai con chó trong một đêm. Vụ án này khiến mọi người ngơ ngác, chẳng hiểu nguyên nhân, vì dân Hải Nam không ăn thịt chó bao giờ!


Tiếu ngạo Trung Hoa EmptyMon Nov 08, 2010 11:56 am

Su_147617
.♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Su_147617

Tiến Sĩ
Tiến Sĩ

http://hocscinhbentre.ifno
Giới tính : Nữ
Cung : Bò Cạp
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 426
Tài khoản Tài khoản : 608
Được cảm ơn : 27
Sinh nhật Sinh nhật : 30/10/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : chỗ tui ở :D
Châm ngôn Châm ngôn : .♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Level: 29 Kinh nghiệm: 426%
Sinh mệnh: 426/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Tiếu ngạo Trung Hoa

 
Tiếu ngạo Trung Hoa
Ưu Đàm Hoa

Hồi 02

Hải biên hỏa chiếu vân
Thần Long nhập Trung Nguyên



Hơn một năm sau, đúng trưa ngày mùng một tháng mười một năm Ất Mùi, tức năm Vĩnh Lạc thứ mười ba, Trinh Tâm hạ sinh một bé trai bụ bẫm, nặng đến sáu cân.

Nàng đặt tên cho con là Nam Cung Giao. Đứa bé có tiếng lạ là hai ngón chân cái hơi chĩa ra ngoài.

Giao nhi giống cha ở nết ăn nên lớn nhanh như thổi, hơn năm đã biết đi. Tất nhiên, khi nó đứng thì hai ngón chân cái giao nhau!

Dân trong thôn lấy làm lạ, nhưng không biết đấy là đặc tính của người Giao Chỉ nước An Nam!

Giao nhi càng lớn càng ăn rất khỏe. Điều này đã an ủi Nam Cung Bột, vì dung mạo đứa bé giống mẹ chứ chẳng giống cha, cho nên nết ham ăn là chứng tích của giòng máu Nam Cung!

Cuộc sống gia đình gã giờ đây đã khá giả, nhờ tính cần kiệm của Trinh Tâm và cũng nhờ y thuật của nàng.

Danh tiếng Dương Sa nữ đại phu đã lan ra những thôn kế cận, kẻ nghèo người giàu điều tìm đến khi đau ốm.

Đám quả phụ trong thôn đã trở thành trợ thủ của Trinh Tâm, lo việc hái thuốc, phơi phóng và bào chế dược vị!

Nhờ họ, Trinh Tâm biết rõ gia cảnh từng bệnh nhân, tùy giàu nghèo mà tính tiền.

Trinh Tâm dạy con rất nghiêm khắc, năm bốn tuổi đã cho học chữ và luyện võ. May thay, Giao nhi thông minh đỉnh ngộ chứ không ngốc như cha, học một biết mười, văn võ đều tiến bộ. Nó lại thừa kế nòi thần lực của Nam Cung Bột nên rất khỏe mạnh, mới lên tám đã đánh bại cả đứa trẻ mười hai!

Năm Bính Ngọ, Tuyên Đức Nguyên Niên, đời vua Minh Nguyên Tông, Giao nhi gần trọn mười hai tuổi. Cậu bé không vạm vỡ, to béo như cha những cũng cao hơn bọn tiểu hài đồng trang lứa!

Giao nhi may mắn thừa hưởng hết những ưu điểm của song thân: Thân cao và rộng, mũi thẳng, mặt xương xương, mắt hai mí đen tuyền, hơi xếch về đằng đuôi, cằm đầy đặn.

Tóm lại, Giao nhi là một cậu bé trai khá anh tuấn dù nước da ngăm đen như bất cứ người dân miền biển nào!

Rõ ràng, cậu giống mẹ nhiều hơn cha, nhưng Nam Cung Bột hài lòng vì gã chẳng ưa đôi mắt nhỏ và sống mũi tẹt của mình, ít ra thì Giao nhi cũng giống gã ở nết ăn và tính khôi hài.

Nam Cung Bột vẫn ra khơi đánh cá vì chẳng thể ở nhà ăn bám vợ được.

Một nam nhân chân chính phải làm việc gì đó dù nhỏ hay lớn.

Việc giáo dưỡng Giao nhi là của Trinh Tâm, song Nam Cung Bột cũng tranh thủ dạy cho con trai cưng pho quyền pháp gia truyền. Gã không dạy đao pháp vì Giao nhi đã luyện pho Lạc Điểu kiếm pháp của giòng họ Đặng.

Còn nghề bơi lội thì khỏi dạy vì Giao nhi ở dưới nước cũng thoải mái như trên cạn, thủy tính giỏi nhất trong đám thiếu niên.

Chính Trinh Tâm cũng không biết xuất xứ của pho kiếm pháp Lạc Điểu tổ tiên họ Đặng đã truyền lại nhiều đời, và nhờ nó mà Đại tướng Đặng Dung, bào huynh của Trinh Tâm, đã trở thành Đệ Nhất Kiếm Thủ đất An Nam!

Đặng Dung theo phò vua Trần Quang Trần Quí Khách của An Nam khởi nghĩa chống Minh. Tháng chín năm Quí Tỵ, một năm trước khi Trinh Tâm gặp Nam Cung Bột, thống binh đoàn quân viễn chinh triều Minh là Tân Thành Hầu Trương Phụ vào đến Thuận Hóa. Nửa đêm Đặng Dung đem quân tập kích Trương Phụ. Ông vượt qua được vòng vây vào đến tận thuyền của Trương Phụ. Do không biết mặt nên đã để họ Trương chạy thoát.

Trận ấy, Đặng Dung đã một mình một kiếm trước mười tám cao thủ Trung Nguyên theo hộ vệ Tân Thành Hầu, dọa khiếp tướng sĩ nhà Minh!

Bản lãnh siêu quần bạt tụy của Đặng Dung đã chứng tỏ được sự lợi hại của pho Lạc Điểu kiếm pháp.

Giao nhi học võ từ năm lên bốn nên thuộc làu cả kiếm lẫn quyền pháp, khinh công cũng khá!

Đầu tháng bảy năm ấy, đoàn thuyền chở lương sang tiếp viện quân binh ở An Nam gặp bão, phải ghé vào đảo Hải Nam để sửa chữa những cột buồm bị hư hại.

Ba mươi chiếc thuyền chở lương này thả neo ở một đoạn bờ biển cách thôn Dương Sa vài dặm. Bọn thủy binh la cà vào thôn ăn nhậu, oang oang khoe tầm quan trọng của nhiệm vụ hậu cần. Chúng còn khai ra cả mục đích lẫn danh tính của vị chỉ huy, tham tướng Trương Năng, bốn mươi lăm tuổi, mười tám năm trước từng theo Tân Thành Hầu Trương Phụ chinh phạt An Nam.

Lần này, Trương tham tướng phải quay lại An Nam vì lão Lê Lợi nào đó đã nổi dậy, cách nay mười năm, đánh cho quân nhà Minh chạy dài!

Nam Cung Bột đến nhà Tần Khải chơi, nghe được chuyện này, về kể lại cho vợ nghe!

Đêm ấy Trinh Tâm không ngủ, sáng ra, chờ trượng phu ăn điểm tâm xong, nàng quì xuống đất lạy!

Nam Cung Bột thất kinh vội đỡ lên, nhăn mặt hỏi:

- Vì sao phu nhân lại làm như vậy?

Trinh Tâm bật khóc, rồi gạt lệ nói với giọng kiên quyết:

- Tướng công cũng đã biết thiếp là một nữ tướng của An Nam. Mười năm qua, vì thương chàng và Giao nhi mà nấn ná ở lại chốn này chứ không về cố thổ góp sức với Lê Lợi kháng Minh! Nhưng nay nếu để đoàn lương thuyền đến được An Nam thì nghĩa quân nguy mất! Gia dĩ, gã Trương Năng kia chính là một tên đại ác, từng giết hạ hàng ngàn người Giao Chỉ vô tội. Lúc áp giải tù binh về Trung Hoa, Trương Năng còn hành hạ bọn thiếp rất tàn nhẫn, khiến vua Thịnh Quang phải nhảy xuống biển và gia huynh Đặng Dung cắn lưỡi chết theo. Sau đó, gã và tám tên nữa định cưỡng bức thiếp, may mà thiếp kịp nhảy ra khỏi thuyền, và được tướng công cứu vớt!

Nam Cung Bột ràu rĩ ngắt lời:

- Thế phu nhân định sẽ làm gì?

Trinh Tâm đáp:

- Lát nữa, gia đình chúng ta sẽ thu xếp hành lý, giả vờ về thăm quê của Tướng công ở Cán Châu. Chàng cứ đem Giao nhi đi, còn thiếp sẽ quay lại, tìm cách giết Trương Năng và đốt đoàn thuyền lương!

Giao nhi sợ hãi kêu lên:

- Hài nhi không để mẫu thân đi một mình được. Có chết thì cả nhà cùng chết chung!

Nói xong, cậu bé bật khóc nức nỡ, ôm chặt lấy từ mẫu!

Nam Cung Bột tần ngần suy nghĩ một lúc lâu, rồi mỉm cười thê lương, nhìn Trinh Tâm bằng ánh mắt âu yếm:

- Này nương tử! Bột ta vốn chẳng tán thành việc giết người cướp đất của triều đình! Trung Hoa rộng mênh mông, người ở không hết, hà tất phải đi xâm lăng nước khác? Ta tuy là người Hán nhưng chẳng mù quáng đến nỗi ủng hộ kẻ ác. Ta sẽ cùng nàng xuất thủ, chắc chắn sẽ thành công mà còn bảo toàn được mạng sống! Ta không muốn mất vợ và cũng chẳng nỡ để Giao nhi mồ côi mẹ!

Trinh Tâm mừng rỡ quì xuống lạy tạ:

- Tướng công nếu được đại nghĩa, không ngại tiếng phản tặc, khiến lòng thiếp mừng vì gởi thân chẳng lầm người!

Nam Cung Bột nghiêm giọng:

- Nhưng chỉ một lần này thôi! Dĩ hậu, nàng đừng dây vào ân oán giữa hai nước nữa!

Trinh Tâm gạt lệ hứa:

- Thiếp hiểu được nỗi khổ tâm của tướng công! Sau trận này, chúng ta sẽ về Trung Nguyên sinh sống! Đời thiếp sẽ trọn vẹn thuộc về họ Nam Cung, nhưng việc truy tầm tám tên cao thủ cận vệ của Trương Phụ, để báo thù cho gia huynh là vua quan nhà Hậu Trần, Giao nhi sẽ phải cáng đáng!

Nam Cung Bột gật gù:

- Tất nhiên là thế! Ta cũng không chịu buông tha những kẻ đã hành hạ và định cưỡng bức người vợ xinh đẹp của ta!

Trinh Tâm thẹn thùng nguýt phu quân:

- Tướng công quả là không biết thẹn! Trong lúc này mà chàng còn đùa được sao?

Nhưng chính câu nói bỡn của Nam Cung Bột đã khiến lòng người nhẹ nhõm.

Giao nhi cười khúc khích:

- Hôm nay hài nhi thấy phụ thân oai phong khác hẳn thường nhật!

Trinh Tâm đỏ mặt tát yêu con:

- Ngươi nói nhăng gì thế? Ta có bao giờ lấn lướt cha ngươi đâu?

Giao nhi nheo mắt, ranh mãnh đáp:

- Mẫu thân rất hiền, nhưng không hiểu sao người trong thôn ví phụ thân bằng cái tên Tam Bôi tiên sinh? Họ bảo rằng mẫu thân chỉ cho chồng uống mỗi ngày ba chén rượu mà thôi, nếu quá mức thì cấm vào giường trong một tháng!

Nói xong, cậu bé vuột nhanh khỏi tay mẹ để tránh bị đòn! Giao nhi núp sau lưng cha, cười giòn dã!

Trinh Tâm vừa thẹn vừa giận đuổi con trai chạy vòng quanh chồng.

Nam Cung Bột chụp tay nàng giữ lại, từ tốn nói:

- Giao nhi có tính hay đùa giống ta, nàng giận làm gì! Giờ hãy bàn kế hoạch cho chu đáo để khi hành sự không sơ suất.

Đến chiều thì cả thôn Dương Sa biết việc gia đình Nam Cung Bột về Cán Châu thăm mộ tổ tiên, và có thể sẽ ở lại luôn để Giao nhi được học hành tử tế hơn!

Nhà cửa được giao cho Tần Khải chăm sóc. Nếu vợ chồng Nam Cung Bột không trở lại thì coi như tặng luôn cho họ Tần.

Sáng hôm sau, nhằm ngày mùng chín tháng bảy, dân trong thôn Dương Sa bịn rịn tiễn đưa gia đình Nam Cung.

Đám nữ nhân sa lệ khóc ròng vì lưu luyến Dương Sa nữ đại phụ Nàng ma đã chữa bệnh và làm người bạn tốt của họ, trong suốt mười năm qua!

Trinh Tâm cũng ngậm ngùi khi phải chia tay những người dân chài chất phác, quê mùa này. Họ không thiếu những tật xấu của người nghèo như tham rặt, khôn vặt và nhiều chuyện. Nhưng bản chất nhân hậu, chuộng việc nghĩa, họ chẳng khác gì đồng bào của nàng ở bên kia biển!

Chính lòng tham của bọn vua chúa Trung Hoa đã gây nên cảnh chém giết giữa hai dân tộc vốn hiền lành, hiếu khách!

Giao nhi cũng gồng mình nhận những cú phát thật mạnh của bọn trẻ làng chài, và đáp lễ lại để giã từ. Cậu bé không hề thấy đau nhưng nước mắt cứ rơi dài. Đứa bé nào cũng khóc khi phải xa rời nơi mà cả cuộc đời thơ ấu đã trôi qua vui vẻ!

Nam Cung Bột xiết chặt từng người trong đám nam nhân lần cuối rồi khàn giọng thúc giục vợ con lên xe ngựa. Gã đã mua một cỗ xe độc mã để chở thê tử và hành lý.

Cỗ xe lăn bánh đi về hướng Bắc, khuất dần sau những cụm dương xanh thẫm.

Người trong thôn giải tán, ai về nhà nấy, và không biết rằng Nam Cung Bột đã cho xe rẽ vào cánh rừng già dưới chân núi Lam Sơn, cách nhà cũ chừng sáu dặm.

Trời vừa tối hẳn, Nam Cung Bột và Trinh Tâm, toàn thân hắc y, mặt bịt kín, âm thầm quay lại nhà mình.

Họ vào bếp mang những túi dầu cá lanh ra chất đầy thuyền, rồi chèo về hướng đoàn chuyên chở lương.

Ngoài lúa và ngũ cốc, ba mươi chiếc thuyền lớn này còn chở theo cả quân nhu, như y phục, lu bạt, chăn mền, cung tên, yên cương!

Mỗi loại đều có tầm quan trọng như nhau nên được phân tán đều khắp lượt, để phòng có đắm vài chiếc cũng không ảnh hưởng đến đại cục.

Thực ra, chỉ có hai mươi chín chiếc thuyền có hàng, chiếc soái thuyền của tham tướng Trương Năng dành cho các võ quan.

Trời bão nên gió rất lớn, Trương Năng phải thả neo, và buộc dính các thuyền lại với nhau, để tạo thế liên hoàn vững chắc. Như thế, quân sĩ có thể chuyển vật liệu từ thuyền này sang thuyền khác một cách dễ dàng.

Những cột buồm gãy đã được thay thế bằng loại gỗ tốt trong rừng Lam Sơn. Họ Trương định sáng mốt sẽ khởi hành nên tối nay mở tiệc mừng.

Hải Nam cách xa An Nam hàng ngàn dặm, chẳng có kẻ địch nào đe dọa nên Trương Năng cho lính thả giàn.

Cuối canh ba thì chẳng còn mấy tên tỉnh táo! Chúng được quyền ngủ đến tận chiều mai cho lại sức để sáng mười một ra khơi, vì bão đã tan.

Cuối canh ba phu thê Trinh Tâm đã lần lượt tưới dầu hết hai mươi chín chiếc thuyền hàng.

Soái thuyền nằm giữa, hai vợ chồng chia nhau mỗi người một đầu tiến vào, và gặp nhau ở đấy.

Soái thuyền của Trương Năng là một du thuyền có hai tầng, được canh giữ nghiêm mật, đèn đuốc sáng trưng.

Bên trong, bọn võ tướng vẫn còn ăn uống và thưởng thức lời ca, điệu múa của đám ca nhi được mời về từ trấn Hải Hoa gần đấy.

Phu thê Trinh Tâm ẩn ở thuyền bên cạnh nhìn sang.

Nam Cung Bột tư lự nói:

- Này nương tử! Cạnh Trương Năng còn có rất nhiều quan quân, chúng ta mà đánh vào, chưa chắc đã giết được họ Trương, có khi còn bỏ mạng. Mong nàng xem trọng việc đốt lương và nghĩ đến con thơ mà tạm gác việc giết Trương Năng.

Trinh Tâm mỉm cười:

- Tướng công quả là cao kiến, thiếp xin tuân mệnh!

Tình mẫu tử bao la đã thắng được lửa hận thù, Trinh Tâm quay lại bật hỏa tập châm lửa đốt chiếc thuyền hàng bên cạnh soái thuyền.

Nam Cung Bột cũng khai hỏa chiếc thứ hai.

Như vậy, soái thuyền bị kẹp vào giữa, chắc chắn sẽ bị cháy lây.

Từ chiếc thứ ba trở đi, công việc càng khó khăn, vì bọn thủy quân ở hai thuyền trước đã báo động vang trời.

Trinh Tâm và Nam Cung Bột phải ra sức chém giết mới tiến sang được thuyền khác mà châm lửa.

Dù Minh Thành Tổ Chu Lệ đã băng hà nhưng Nam Cung Bột không biết điều ấy, nên dồn hết giận hờn vào thanh đao, bổ những nhát như trời giáng, quét bay bọn thủy quân đang choáng váng cơn say rượu, nên đám binh lính lấy hết sức lực và dũng khí la hét cho oai chớ không dám trực diện đương đầu với gã hắc y to lớn như hộ pháp kia. Nhờ vậy, Nam Cung Bột đỡ phải áy náy vì phải giết đồng bào của mình.

Bên này, Đặng Trinh Tâm không nhân từ như trượng phu, xuất thủ rất tàn nhẫn. Tuy sức lực không bằng Nam Cung Bột song đường kiếm của nàng nhanh nhẹn và hiểm ác tuyệt luân. Mối hận vong quốc đã biến nàng thành mãnh hổ, chém giết chẳng nương tay. Luồng kiếm quang lấp loáng dưới ánh lửa hồng trông tựa như màu máu.

Bọn thủy quân nhà Minh thấy đối phương đi đến đâu thì máu chảy đầu rơi, nên sợ hãi nhảy cả xuống biển cầu sinh.

Trương Năng và đám võ quan đã rời ngay soái thuyền, bỏ của chạy lấy người, vì biết các thuyền hàng đều chứa thuốc súng! Quân Minh đã đem cả đại pháo sang An Nam để trấn áp nghĩa binh Lê Lợi.

Quả nhiên, hai chiếc thuyền cạnh soái thuyền phát nổ trước. Ngàn cân hỏa dược phá nát thuyền, biến thành ngọn lửa khổng lồ, chụp xuống thuyền kế bên.

Thời Tam Quốc, trong trận Xích Bích, Tào Tháo từng bị dụ mà nối các chiếc thuyền lại với nhau, để rồi bại trận. Giờ đây, Trương Năng cũng tự se dây trói mình bằng kiểu ấy.

Lần lượt, từng chiếc thuyền phát nổ long trời lỡ đất, đánh thức bách tính Dương Sa cũng như những thôn gần đấy.

Dù còn đến gần hai chục thuyền lương chưa được châm lửa, nhưng phu thê Nam Cung Bột cũng nhảy xuống biển đào tẩu, vì biết rằng trước sau gì chúng cũng tan tành.

Hai người bơi một mạch về hướng Bắc, đến đoạn bờ biển đã hẹn trước rồi cùng nhau phi thân về hướng rừng Lam Sơn.

Trinh Tâm hân hoan bởi góp được công lao với quê nhà, nhưng biết lòng trượng phu đang nặng trĩu vì áy náy, nên nàng chẳng dám nói cười.

Về đến chỗ đậu xe, không thấy Giao nhi đâu, hai vợ chồng kinh hãi gọi vang.

Trinh Tâm giận dữ nói:

- Chắc là nó đã ra bờ biển xem cảnh thuyền cháy! Chúng ta phải quay lại đấy tìm mới được!

Họ vội vã lướt đi, lòng đầy lo lắng.

Bờ biển sáng rực và vẫn còn vang dậy tiếng nổ khủng khiếp của những chiếc thuyền cuối cùng.

Hai vợ chồng vừa chạy vừa trừng mắt quan sát, cố tìm cho ra vóc dáng nhỏ bé của đứa con yêu.

Khi còn cách đám cháy hơn dặm, Trinh Tâm mừng rỡ rú lên khi thấy Giao nhi đang cầm tiểu đao chạy ngược về phía mình. Nàng lao đến ôm con thơ, nhận ra nó ướt như chuột lột.

Trinh Tâm nổi cơn lôi đình:

- Giao nhi! Vì sao con lại dám cãi lời song thân lần đến chỗ hiểm nguy!

Nam Cung Bột cũng càu nhàu:

- Ngươi quả là khó dạy! Ta phải đánh đòn mới được!

Giao nhi thản nhiên nhe răng cười:

- Hài nhi nghe song thân bàn bạc kế hoạch, đoán rằng Trương Năng sẽ phải nhảy ra khỏi thuyền để bơi vào bờ. Vì vậy, hài nhi đã phục sẵn dưới nước, im lìm đâm cho lão ta một nhát chết toi! Trương Năng là người duy nhất biết việc mẫu thân nhảy xuống vùng biển Dương Sa mười ba năm tnrớc. Nếu để lão sống sót thì lai lịch của mẫu thân sẽ bại lộ, di hại đến cả giòng họ Nam Cung! Lệnh truy nã chúng ta sẽ được thông báo khắp cả nước, dẫu đi đến đâu cũng khó sống.

Trinh Tâm bàng hoàng trước lập luận của con thơ, biết rằng mình đã phạm một sai lầm rất lớn, may mà Giao nhi đã kịp sửa chữa.

Nàng sung sướng ôm chặt ái tử và khen ngợi:

- Ôi Giao nhi! Con còn nhỏ mà đã suy nghĩ chu toàn đến thế sao?

Nam Cung Bột cũng hổ thẹn vì chính gã đã khuyên Trinh Tâm đừng giết Trương Năng. Gã chữa thẹn bằng cách nghiêm giọng trách móc:

- Nương tử ôm thù hận mà dạy con nên Giao nhi mới từng tuổi này đã dám giết người. Ta thật chẳng hài lòng chút nào cả!

Trinh Tâm cũng thấy đau lòng khi nghĩ đến cảnh con thơ tay nhúng máu. Nàng thở dài não nuột:

- Thiếp biết lỗi mình! Nguyện sẽ dạy dỗ Giao nhi cẩn thận hơn!

Nàng buồn rầu bảo con:

- Giao nhi! Đạo làm người phải xem chữ nhân làm trọng, nếu con hiếu sát như vậy thì có khác gì bọn quân Minh man rợ, đã từng giết hại người An Nam đâu?

Giao nhi gật đầu hối lỗi rồi lại cười ngay:

- Lúc đầu hài nhi cũng run tay không dám đâm lão họ Trương. Nhưng nghĩ đến cảnh lão ức hiếp mẫu thân là lửa giận lại sôi lên. Trừ cha ra, hài nhi chẳng muốn ai phạm đến cơ thể ngọc ngà của mẫu thân cả!

Nam Cung Bột phì cười còn Trinh Tâm thẹn chín người, phát mạnh vào lưng con trai:

- Tiểu quỷ quá lắm! Ngày ấy ta kịp nhảy xuống biển, có bị chúng đụng chạm gì đâu?

Giao nhi cười hì hì:

- Ai mà biết được? Có thể mẫu thân mắc cỡ nên nói thế đấy thôi!

Biết sắp ăn đòn, Giao nhi chạy ù đi ngay!

Nam Cung Bột đắc ý nói:

- Ai bảo rằng nó không giống ta? Tiểu quỷ này quả chẳng biết sợ là gì! Dẫu hoàn cảnh nào cũng đùa giỡn được! Ngày xưa ta cũng có tật sờ vú mẹ cho đến năm mười tuổi mới thôi!

Trinh Tâm thẹn quá hóa giận, đấm vào ngực trượng phu.

Nam Cung Bột chụp lấy tay nàng kéo đi, chạy theo con trai!


[/size][/font]
o O o
[font=Verdana, Arial][size=2]

Hai tháng sau, gia đình Nam Cung Bột đến Cảnh Đức trấn, thuộc đất Giang Tây! Vì phòng xa, họ đã không định cư ở đất Cán Châu như dự kiến ban đầu.

Chắc chắn Tri huyện Hải Nam sẽ cho điều tra vụ đốt thuyền lương và có thể nghi ngờ nhà Nam Cung. Nhưng may thay, sự việc lại diễn biến theo một chiều hướng khác. Gã phó tướng Trương Năng vì sợ rơi đầu nên đã đưa đám tàn quân lên chiếc thuyền duy nhất còn sót lại, trốn sang quần đảo Phù Tang. Không có nguyên cáo cũng như nhân chứng, Tri huyện Hải Nam đành phải làm tờ trình gởi về cho Tri phủ Quảng Đông.

Nội dung là: Đoàn lương thuyền vô cớ phát nổ, không một ai sống sót?

Cảnh Đức trấn là địa phương sầm uất, trù phú nhất Giang Tây thời ấy. Nơi đây có đến mấy trăm lò gốm, sản phẩm nổi tiếng khắp Trung Hoa và hải ngoại. Ngày ngày, thương lái các nơi và bọn Tây Dương đến mua hàng, khung cảnh cực kỳ náo nhiệt.

Nhưng sanh nghề tử nghiệp, đa số dân trong trấn và quanh vùng đều mắc những chứng bệnh về đường hô hấp.

Khói từ lò gốm đã làm ô nhiễm bầu không khí, và ảnh hưởng đến sức khỏe của bách tính!

Vậy là y thuật của Trinh Tâm có đất dụng võ. Chỉ sau vài tháng nàng đã nổi danh thần y, có rất nhiều thân chủ!

Nam Cung Bột bỏ nghề đánh cá, phụ giúp ái thê việc thuốc men vì Giang Tây không có biển.

Năm Chính Thống thứ nhất đời Minh Anh Tông, Nam Cung Giao tròn hai mươi hai tuổi, đã có thêm hai em gái. Tuy An Nam đã giành được độc lập nhưng Trinh Tâm vẫn chưa quên mối thù giết anh, liền cho trưởng tử lên đường.

Nam Cung Bột đã sáu mươi mốt tuổi. Người già thường an phận nên lão không tán thành việc báo thù, nhưng biết tính tình kiên quyết của vợ, đành phải ngậm miệng.

Hiểu ý cha Nam Cung Giao cười bảo:

- Nam nhi chí tại bốn phương! Nay hài nhi giỏi võ hơn văn, chẳng lẽ lại sớm lấy vợ sanh con, sống đời tẻ nhạt ở chốn đầy khói bụi này? Năm xưa, phụ thân đã chẳng từng bỏ nhà vác đao đi lang bạt đấy sao?

Chàng ranh mãnh đảo mắt nói:

- Hài nhi sẽ mang về năm sáu cô vợ đẹp để khỏi bị ăn hiếp như phụ thân! Người này không cho ngủ thì ta chui vào giường khác!

Nam Cung Bột phá lên cười khanh khách, còn Trinh Tâm thì đỏ mặt. Ở tuổi bốn mươi tám, bà vẫn còn rất thon thả và quyến rũ khiến trượng phu mê như điếu đổ. Chính nhờ sự nghiêm khắc của bà mà Nam Cung Bột sống điều độ, giữ được vẻ cường tráng, dù đã bước qua tuổi lục tuần.

Trinh Tâm nén thẹn thùng, nghiêm giọng dạy con:

- Tửu sắc là hai việc mà bậc chính nhân luôn cẩn trọng! Nam nhi mà đa mang tình ái thì chẳng dựng nên nghiệp lớn!

Nam Cung Giao vòng tay chính sắc đáp:

- Hài nhi luôn ghi nhớ những lời vàng ngọc của mẫu thân. Sau này xuất đạo, mỗi ngày chỉ uống ba chung, còn lấy vợ thì chỉ ba người mà thôi!

Biết chàng nói bỡn, Nam Cung Bột cười hô hố để chọc ghẹo bà vợ xinh đẹp và dữ như cọp của mình. Nào ngờ Trinh Tâm lại gật đầu:

- Giao nhi có tướng đào hoa lắm thê nhiều thiếp, ắt sẽ khổ vì tình. Nay con đã hứa thì phải giữ lời, nếu lấy đến người thứ tư thì ta không thừa nhận đâu đấy!

Nam Cung Giao ngỡ ngàng, còn Nam Cung Bột thì lẩm bẩm:

- Mẹ kiếp! Không ngờ thằng bé này lại tốt số hơn mình!

Gần tháng sau, trong thành Nam Kinh, cạnh sông Trường Giang xuất hiện một chàng trai mặc trường bào xanh nước biển thắt lưng và dây buột tóc màu vàng nhạt. Trên gương mặt trắng trẻo kia ló đôi lông mày chữ nhất đen như hai vệt mực, đôi mắt trong sáng, tinh anh. Sống mũi thẳng với chuẩn đầu tròn đầy, và đôi môi không mỏng không dầy.

Bảo rằng anh tuấn phi phàm thì e quá lời, nhưng khi chàng ta cười, lúm đồng tiền ở má trái sao duyên dáng lạ lùng! Nhìn lâu chúng ta sẽ phát hiện ánh mắt kia có chút gì ranh mãnh, pha chút diễu cợt.

Nam Cung Giao kế thừa được hết những ưu điểm của song thân: tính lạc quan, vui vẻ của cha và sự thông minh, kiên quyết của mẹ.

Lần đầu tiên đến chốn phồn hoa đô hội, chàng trai xứ biển ngây ngất ngắm nhìn cảnh vật, môi điểm nụ cười thán phục.

Nam Kinh ngày xưa chính là Kim Lăng, nơi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chọn làm Đế Đô, và đặt cho cái tên rất kêu là Ứng Thiên Phủ.

Nhưng sau khi con trai thứ của Thái Tổ, Yên Vương Chu Lệ, cướp ngôi cháu là Huệ Đế Chu Doãn Văn, đã cho dời đô về Bắc Kinh. Minh Thành Tổ Chu Lệ là một vị vua có tài trị nước.

Việc thiên sư lên phía Bắc có một ý nghĩa chiến lược rất quan trọng. Vì mối hiểm họa hình của Trung Hoa là bọn rợ phương Bắc như Mông Cổ, Mãn Châu, chứ chẳng phải những nước nhỏ ở phía Nam như Giao Chỉ, Miến Điện, Tây Tạng.

Nam Kinh giờ đây chỉ còn là cố đô, song tập trung không ít những vị đại thần đặc phái của triều đình, chịu trách nhiệm từ sông Trường Giang trở về Nam. Những tù binh An Nam, Chiêm Thành, cùng tất cả sách vở tịch thu, đều ở cả Nam Kinh!

Nam Cung Giao đến đây không phải vì các tù nhân hay cổ thư mà vì một người có trên là Quách Tường An, hiện giữ chức Nam Kinh Binh bộ Thượng thư. Nghĩa là họ Quách nắm binh quyền ở các phủ phía Nam. Do việc Bắc Kinh ở tận cực Bắc xa xôi, cách Vạn Lý Trường Thành chỉ vài trăm dặm nên Nam Kinh hầu như có cả một triều đình nhỏ, các bộ đều cử đại diện đến đây.

Hơn hai mươi năm trước, Quách Tường An là một võ tướng dưới quyền Tân Thành Hầu Trương Phụ, sang chinh phạt An Nam. Lão giết người như ngoé, kể cả lương dân vô tội và đàn bà con trẻ! Lão cũng là một trong những kẻ đã hành hạ tù binh và định cưỡng bức Trinh Tâm.

Vì chuyện xảy ra đây hai mươi mấy năm nhưng thù nhà nợ nước đã luôn ám ảnh người nữ kiệt họ Đặng.

Bà đã nung nấu lửa căm hờn trong lòng con trai bằng những câu chuyện thương tâm do bọn quân binh tàn ác gây ra. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của Nam Cung Giao.

May mà cha chàng tánh tình phóng khoáng, rộng rãi, nên đã giảm nhẹ ấn tượng sắc máu trong tâm hồn thơ dại.

Song dẫu sao, Nam Cung Giao cũng quyết lấy đầu Trương Phụ và đám quan võ ác ôn kia.

Chàng tìm chỗ trọ, gởi ngựa và hành lý, đi dạo khắp nơi, chủ yếu là quan sát dinh thự của Nam Kinh Binh bộ Thượng thư họ Quách.

Cơ ngơi của Quách Tường An nằm gần cổ cung, nơi ngày xưa Chu Nguyên Chương trị vì.

Giờ thì Hoàng cung đã trở thành Hoàng cung để vua mới nghỉ ngơi, mỗi khi có dịp Nam du.

Khu vực này còn có khá nhiều dinh thự của các quan to khác, được bảo vệ nghiêm mật. Đường không cấm đi song lúc nào cũng có những đoàn quân sĩ tuần tra qua lại!

Con đường quan cách này được đặt tên là đường Hoàng cung. mặt lộ rộng bốn mươi bước chân lát đá bằng phẳng, hai bên đường trồng toàn những cây hoàng xương xanh thẫm!

Các kiến trúc trên đường rất đẹp và đầy nét cổ kính nên được du khách bốn phương chiếu cố, người qua kẻ lại tấp nập.

Đi nhiều ắt phải mỏi chân, khát nước. Do vậy có nhiều vị quan muốn chứng tỏ mình liêm khiết, giàu có nhờ tài kinh doanh của vợ, liền mở trà lâu, tửu quán ngay mặt tiền.

Đấy là những người ít quyền lực làm ở những ngành không quan trọng, chứ Binh bộ Thượng thư thì chẳng thể muối mặt được. Nhưng xeo xéo trước mặt dinh thự họ Quách có một tòa Phú Quí đại tửu lâu.

Chủ nhân tửu lâu này là phu nhân của quan Thị lang Bộ Hộ họ Tả.

Từ trên tầng hai, Nam Cung Giao có thể quan sát bao quát cơ ngơi của Quách Tường An.

Đã trót mang tên là Phú Qúi nên nơi đây chỉ tiếp toàn những người sang cả đất Nam Kinh.

Rượu và thức ăn đều đắt gấp ba lần quán khác, khiến kẻ trung lưu cũng chẳng dám vào!

Nhưng sanh ý của Tả phu nhân rất thịnh vượng vì quán của bà là chỗ giao dịch làm ăn. Ai có việc muốn nhờ vả lo lót tất sẽ mời các quan đến đây thương lượng. Cũng là chỗ đồng liêu, bá quan Nam Kinh không sợ Tả phu nhân tiết lộ bí mật của mình! Họ lại chẳng phải là người trả tiền ăn nhậu, nên cứ khăng khăng đòi đến Phú Qúi đại tửu lâu cho an toàn!

Nam Cung Giao xuất thân nghèo khó, lại căn cơ hà tiện chẳng khác mẫu thân. Chàng bấm bụng mua bộ y phục bằng gấm thượng hạng để được vào chốn sang trọng này. Chàng mỉm cười xót xa khi gọi rượu thịt, biết rằng hầu bao sắp thủng!

Trên đầu Nam Cung Giao còn một tầng nữa, dành riêng cho các quan thù tiếp bọn trọc phú, thương nhân.

Tửu khách chân chính chỉ được ngồi ở tầng trệt và lầu một. Song từ đấy, khách vẫn có thể nhìn thấy núi Tây Hà ở ngoại thành.

Tây Hà là một thắng cảnh đất Kim Lăng, cứ mỗi độ thu về, sau tiết sương giáng, lá cây phong, cây hoàng lư, cây thị trên núi trở nên đỏ rực, cảnh tượng muôn phần xinh đẹp, hấp dẫn bách tính và du khách. Người xưa có câu: “Lá Sương Giáng đỏ hơn hoa tháng hai”, là để chỉ trường hợp này!

Do vị trí thuận tiện nên tầng hai rất đông khách, đa số là con cháu các quan và thế gia công tử đất Nam Kinh.

Không muốn nhiều người nhận ra sự hiện diện của mình ở chốn này, Nam Cung Giao tính tiền rồi rời Phú Qúi đại tửu lâu. Với đôi mắt tinh tường và trí nhớ tuyệt luân, chàng đã nhớ rõ cách bố trí nhà cửa thông tư dinh Quách thượng thư.

Tuy không thể sánh với cha nhưng sức ăn của Nam Cung Giao cũng gấp ba người thường. Đĩa thức ăn lúc nãy chẳng thấm tháp gì, nên chàng tìm đến một phạn điếm hạng trung để ăn cho no.

Đầu canh ba đêm ấy, Nam Cung Giao thay áo dạ hành, mặt bịt kín tìm đến sào huyệt của kẻ thù!

Sau gần hai mươi hai năm trị vì, Minh Thành Tổ đã khiến nước Trung Hoa trở nên hùng mạnh, phú cường.

Triều cương vững vàng, đất nước thanh bình, chỉ ở những địa phương xa xôi mới có giặc cướp, còn chốn phồn hoa thì cùng lắm là vài tên trộm vặt.

Nam Kinh là trọng địa thứ hai, tập trung quan quân phương Nam nên lại càng an toàn, nhiều năm liền chưa hề xảy ra trọng án. Song cũng vì vậy mà bọn quân sĩ phòng vệ mất cảnh giác, tuần tra, canh gác lấy lệ, lòng chắc mẩm rằng sẽ chẳng có gì xảy ra!

Trinh Tâm là người nghiêm khắc, tuy thương con nhưng không hề nương tay khi dạy dỗ, nhờ thế Nam Cung Giao rất chuyên cần rèn luyện võ nghệ!

Là nam nhân, lại có thần lực hơn người, hiện nay, bản lãnh chàng đã cao hơn thân mẫu. Nếu không được thế thì Trinh Tâm đã chẳng yên lòng cho con đi báo huyết thù!

Trinh Tâm có tài học đạo và ký ức rất tốt, đã vẽ lại chân dung Trương Phụ và chín gã võ quan ác độc. Nam Cung Giao nhớ nằm lòng, nhưng chẳng biết họ ở đâu mà tìm!

Chàng đến Nam Kinh vì nghe bọn lái buôn đồ gốm kể về lão tham quan Quách Tường An. Đêm nay, chàng sẽ phải bắt sống gã để tra lối, hạ lạc tám người còn lại sau đó mới giết!

Giòng máu anh hùng của họ Đặng lưu chuyển trong huyết quản Nam Cung Giao không hề biết sợ.

Nhưng vấn đề là chàng có bắt được Quách Tường An trước khi bị bọn vệ quân phát hiện hay không?

Trong cơ ngơi đồ sộ có cả trăm phòng và tiểu xá này, làm sao chàng tìm được chỗ ngủ của Quách thượng thư? Vị quan nào cũng có cả chục tỳ thiếp, mỗi đêm ân ái với một nàng!

Nam Cung Giao quyết định bắt một người để dò hỏi. Chàng đột nhập vào từ phía sau, vượt qua bức tường cao gần trượng, nhảy xuống vườn hoa.

Khu vực này được canh gác bởi một toán vệ binh. Chúng lười biếng đi tuần, quây quần cạnh ba chiếc đèn lồng mà tán gẫu và chuyền tay nhau bầu rượu.

Nam Cung Giao nương theo bóng đêm và cây cối trong vườn, tiến về phía dãy nhà ngang và vài căn tiểu xá, có lẽ dành cho bọn gia nhân cư ngụ.

Lần đầu đóng vai thích khách, lòng chàng không khỏi có chút hoang mang và hồi hộp. Chẳng chút kinh nghiệm, chàng chỉ dựa vào óc phán đoán và sự cẩn trọng mà thôi.

Khi đi ngang căn nhà bếp lớn, Nam Cung Giao giật mình vì nghe có tiếng người đang ngâm thơ. Giọng lão già này khàn khàn, đầy vẻ thê lương, chẳng hay ho chút nào cả! Song điều đáng chú ý là việc lão ngâm bằng tiếng An Nam!

Trong hai lần chinh phạt, Trương Phụ đã bắt giải về Trung Hoa mấy ngàn tù nhân gồm tù binh và dân thường. Tù binh bị giam cầm cho đến chết, hoặc bị đày đi làm lính, còn thường dân thì trở thành nô lệ, nô tỳ cho bọn quan lại Trung Hoa.

Sau hơn hai chục năm, số tù nhân An Nam này đã sinh sôi thành hàng vạn người, tập trung ở các phủ phía Nam, và nhiều nhất là đất Kim Lăng này!

Quách Tường An từng đích thân áp giải tù nhân về nước, dĩ nhiên đã tuyển lựa cho mình khá nhiều chiến lợi phẩm! Lão già trong bếp kia là một trong số ấy!

Nam Cung Giao xúc động, lướt đến nép sát cạnh cửa sổ nhìn vào trong.

Bên bếp lửa bập bùng kia có một lão già tuổi lục tuần, áo gia nhân bạc màu, râu tóc hoa râm, đang ngồi nhâm nhi bầu rượu nhỏ trên chiếc chiếu rách.

Gương mặt nhìn nghiêng của lão trông đoan chính, quắc thước, vầng trán cao biểu hiện sự thông thái của người có học.

Lão nhân uống cạn một chung, hắng giọng ngâm tiếp một bài khác:

Thế sự du du nại lão hà!
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị.
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma!

Bài thơ Thuật Hoài này chính là kiệt tác của đại tướng An Nam Đặng Dung, cậu ruột của Nam Cung Giao! Chỉ những người thân và lực lượng nghĩa quân Hậu Trần mới biết được. Như vậy lão già này có thể từng là thủ hạ của họ Đặng?

Nam Cung Giao phấn khởi, ra cửa lớn lao vút vào như bóng oan hồn.

Chàng cẩn trọng chĩa mũi kiếm vào ngực lão nhân rồi trầm giọng hỏi:

- Đêm nay lão Quách Tường An nằm ở đâu?

Do bản năng sinh tồn, lúc đầu lão nhân giật mình và sợ hãi. Song dường như lão chẳng hề lưu luyến kiếp đời nô lệ cho kẻ thù nên đã trấn tỉnh lại ngay. Lão bình thân hỏi:

- Vì sao các hạ lại muốn giết Quách thượng thư?

Nam Cung Giao lạnh lùng đáp:

- Báo gia thù! Lão là tù nhân của họ Quách, tội gì phải bao che cho lão ta?

Lão nhân gật gù, cười kinh ngạc:

- Lão phu quả chẳng yêu thương gì Quách Tường An, chỉ vì tò mò muốn biết nguyên nhân đấy thôi? Dẫu sao, hai mươi năm qua, lão phu cũng mang nợ áo cơm của họ Quách, chẳng thể vì sợ chết mà bán đứng y được. Các hạ nên nói rõ nguồn cơn để xem Quách Tường An có đáng chết hay không đã?

Nam Cung Giao phẫn nộ:

- Lão trượng là người An Nam, lẽ ra phải vui mừng khi thấy kẻ thù ác độc kia đền tội, sao lại có thái độ kỳ quặc như vậy?

Lão nhân tủm tỉm đáp:

- Người Giao Chỉ ân oán phân minh, thà tự tay phục thù chứ không nhờ vả kẻ khác!

Nam Cung Giao ngao ngán trước lão già gàn dở, hạ giọng nói bằng tiếng mẹ đẻ:

- Tại hạ là người Giao Chỉ đây!

Trinh Tâm âm thầm dạy con ngôn ngữ quê hương, song Nam Cung Giao ít khi sử dụng nên khẩu âm không chuẩn.

Lão nhân rùng mình vì kinh ngạc và sung sướng nhưng vẫn nghi:

- Tiếng Giao Chỉ rất dễ học, mong các hạ nói rõ lai lịch?

Nam Cung Giao tuyệt đối không thể tiết lộ thân phận, di hại đến song thân nên chỉ còn cách tháo giầy, để lộ bàn chân có ngón cái hơi chĩa ngang.

Lão nhân xúc động đến ứa nước mắt, đưa tay gạt phắt lưỡi kiếm của chàng, chồm đến vuốt ve bàn chân kỳ lạ.

Đặc tính này đã mất dần đi sau gần ngàn năm bị người Hán đô hộ và đồng hóa, không phải người An Nam nào cũng có dị tướng này, nhưng ai có được thì chắc chắn là nòi Giao Chỉ!

Lão nhân nghẹn ngào nói:

- Các hạ cứ an tâm ngồi xuống đây, giờ này chẳng có ai đi ngang bếp đâu!

Nam Cung Giao kiên quyết đáp:

- Không được! Việc hàn huyên xin hẹn dịp khác, mong lão bá chỉ giáo cho đường đi nước bước để tại hạ hoàn thành sứ mạng!

“Đại hạn phùng Cam Vũ, tha phương ngộ cố tri”

Lão nhân đâu dễ gì để niềm vui của mình tan biến quá sớm.

Lão khẩn cầu:

- Đêm còn dài, mong thiếu hiệp nán lại thêm nửa khắc! Lão phu là Nguyễn Tuấn, quê ở đất Diễn Châu, dám hỏi xuất xứ của thiếu hiệp?

Nam Cung Giao hỏi lại:

- Chẳng hay vì sao Nguyễn lão bá lại ở chốn này?

Nguyễn Tuấn biết chàng chưa tin tưởng mình, liền nói rõ:

- Năm xưa, lão phu chịu trách nhiệm việc quân lương dưới trướng tướng quân Đặng Dung, cùng bị bắt giải về Trung Hoa. Lúc đi ngang đảo Hải Nam. Vua Trùng Quang nhảy xuống biển tự trầm, Đặng tướng quân cùng các tướng khác cũng cắn lưỡi chết theo. Lão phu là nho sĩ không có được dũng khí ấy, đành kéo dài kiếp sống thừa cho đến hôm nay!

Nam Cung Giao hờ hững nói:

- Trên thuyền tù chẳng lẽ không có nữ nhân nào?

Nguyễn Tuấn lắc đầu:

- Sao không có! Trương Phụ và bọn quan quân nhà Minh đã bắt được hơn hai trăm nữ binh và các nữ tướng: Đặng Trinh Tâm. Họ bị cưỡng hiếp, dày vò rất dã man, riêng Đặng tiểu thư giỏi võ nên kịp gieo mình xuống biển tự sát chứ không chịu ô nhục!

Nam Cung Giao dịu giọng:

- Bà ấy vẫn còn sống!

Sau hơn khắc mừng mừng tủi tủi, Nguyễn Tuấn hăm hở dẫn đường cho Nam Cung Giao đến tiểu viện của ả tỳ thiếp thứ chín, nơi Quách thượng thư thường xuyên qua đêm.

Chờ Nguyễn Tuấn đi khá xa, Nam Cung Giao bắt đầu hành động.

Nguyễn lão là đầu bếp chính của Quách thượng thư, thường xuyên phục vụ khách khứa nên nghe ngóng được rất nhiều. Ông đã kể cho Nam Cung Giao biết hạ lạc của Trương Phụ và bảy tên võ quan còn lại, nên chàng không cần phải tra hỏi Quách Tường An nữa.

Thu năm nay, vùng hạ du Trường Giang ít mưa nên trời oi bức, các cánh cửa sổ thông ra vườn hoa đều mở rộng.

Nam Cung Giao nghe tiếng động, ghé mắt nhìn qua song.

Trên chiếc giường gỗ quí cuối phòng là một lão già trần truồng đang ngủ say như chết, tiếng ngáy đều đều vang lên!

Quách thượng thư đã sáu mươi lăm nên kiệt lực sau trận thư hùng với nàng tiểu thiếp trẻ trung.

Có thể vì chưa thỏa mãn, hoặc vì khó chịu bởi tiếng ngáy của lão chồng già nên mỹ nhân chưa ngủ. Cửu nương chỉ mặc phong phanh tấm áo ngủ bằng the mỏng, yếm đào chẳng có dây lưng lười buộc nên thân thể nõn nà lồ lộ cả ra dưới ánh nến.

Nàng đang đứng cạnh bàn, say mê ngắm nghía những viên ngọc quí lấy từ rương gỗ nhỏ ra.

Cửu nương là danh kỹ số một của thành Nam Kinh, nhan sắc và tài cầm kỳ thi họa nổi tiếng khắp phương Nam. Quách Tường An đã chuộc nàng ra với giá vạn lượng bạc, biến mỹ nhân hai mươi ba tuổi này thành của riêng.

Họ Quách mê nàng như điếu đổ, tặng rất nhiều vàng ngọc. Bao nhiêu của đút lót, hối lộ đều chạy cả vào tay Cửu nương.

Mỹ nhân có nhũ danh là Hàn Ly Hoa, mặt đẹp như ngọc nhưng lòng tham cũng chẳng nhỏ!

Nam Cung Giao ngượng ngùng dán mắt vào thân hình thon dài, nẩy nỡ của người đàn bà lẳng lơ kia, nghe lòng nổi sóng. Chàng là trai mới lớn, dục hỏa rất vượng nên khó thoát khỏi sự hấp dẫn của vẻ đẹp lõa lồ, khêu gợi trước mắt.

Song Nguyễn Tuấn vừa mới kể cho không nghe về tính tình độc ác, tàn nhẫn của Ly Hoa. Nàng ta rất hà khắc với bọn tỳ nữ, gia nhân, nhất là những người gốc An Nam. Chỉ một chút sơ suất nhỏ, họ cũng phải chịu những trận đòn rách thịt, và phải nghe những lời chửi rủa nặng nề! Câu An Nam cẩu chủng là thành ngữ luôn gắn trên môi Hàn Ly Hoa.

Nam Cung Giao có nửa giòng máu Giao Chỉ, lại hết dạ tôn kính mẫu thân nên rất phẫn nộ. Lửa giận đã giúp chàng bình tâm lại, và thầm hổ thẹn vì sự hiếu sắc của mình.

Nam Cung Giao đi vòng ra phía sau, may mắn tìm được một ô cửa sổ tròn không chấn song đang mở toang để đón chút gió Tây hiếm hoi.

Cửa sổ này thuộc về phòng hai ả tỳ nữ thân tín của Ly Hoa.

Nam Cùng Giao trèo vào, điểm huyệt mê họ rồi mở cửa phòng đi lên phía trước.

Chàng âm thầm lao đến khống chế Cửu nương, biến nàng ta thành pho tượng gỗ câm lặng, chỉ còn đôi mắt đầy khiếp sợ kia là chuyển động.

Trinh Tâm tinh thông y lý nên Nam Cung Giao rành rẽ kinh mạch, nhận huyệt rất chính xác. Chàng xuất thủ từ phía sau nên Quách cửu nương không hề nhìn thấy vóc dáng.

Nam Cung Giao êm ái bước đến giường bát bửu một tay bịt chặt miệng, tay kia cắm thẳng tiểu đao vào tim kẻ thù!

Quách Tường An giẫy giụa một lúc rồi tuyệt khí, lìa đời trong trạng thái trần như nhộng, y hệt lúc chào đời!

Nghĩ đến việc lão ta từng cưỡng bức đám nữ binh của mẫu thân, và còn định tiết mạn cả bà, Nam Cung Giao liếc nhìn khúc thịt ỉu xìu, thảm hại kia, mỉm cười tinh quái vung đao hớt đứt.

Khi suy nghĩ cách trừng trị tính ác độc của Hàn Ly Hoa, máu khôi hài của họ Nam Cung đã nổi lên.

Nam Cung Giao điểm thêm Thùy huyệt Cửu nương, vác nàng ta đặt lên giường nằm ngược chiều với Quách Tường An.

Chàng nhét đoạn của quý vào chiếc miệng anh đào và đặt tay trái Ly Hoa vào cán tiểu đao.

Với hiện trường này, Cửu nương sẽ bị bọn bộ đầu Nam Kinh hành hạ đến sói tóc!

Nguyễn lão đã cho Nam Cung Giao biết rằng có một số người Giao Chỉ muốn trốn về quê hương nhưng không có lộ phí. Do vậy chàng tìm một mảnh vải, bỏ rương châu báu và ngân phiếu vào đấy, cột lại vác lên vai và thoát ra.


Tiếu ngạo Trung Hoa EmptyMon Nov 08, 2010 11:57 am

Su_147617
.♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Su_147617

Tiến Sĩ
Tiến Sĩ

http://hocscinhbentre.ifno
Giới tính : Nữ
Cung : Bò Cạp
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 426
Tài khoản Tài khoản : 608
Được cảm ơn : 27
Sinh nhật Sinh nhật : 30/10/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : chỗ tui ở :D
Châm ngôn Châm ngôn : .♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Level: 29 Kinh nghiệm: 426%
Sinh mệnh: 426/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Tiếu ngạo Trung Hoa

 
ồi 03

Khuê trung nữ hổ nhan như ngọc
Mã phủ Hồ Ly đáo tử kỳ


Sáng hôm sau, Nam Cung Giao thản nhiên đến Phú Quý đại tửu lâu ăn điểm tâm. Nơi đây giá cắt cổ nhưng được cái rượu và thức ăn rất ngon. Các quan đều là kẻ sành ăn nên Tả phu nhân đã phải mời vị một đầu bếp lừng danh đến phục vụ.

Quả nhiên, vừa qua giờ thìn thì dinh Quách thượng thư náo loạn như ong vỡ tổ. Và chỉ gần khắc sau, Tổng bộ đầu Nam Kinh Lưu Cát đã cùng thủ hạ phóng ngựa đến nơi.

Đám thực khách sáng nay đều có giao tình với Quách phủ nên đổ xô xuống, chạy sang xem thử.

Khi Lưu tổng bộ đầu giải Cửu nương Hàn Ly Hoa đi thì họ mới chịu quay về tửu lâu.

Các vị thiên kim tiểu thư khuê các thì mặt mày đỏ như gấc chín, nhưng đám thiếu niên công tử thì cười hô hố, diễn tả lại những điều đã trông thấy.

Người lớn tiếng cao giọng nhất chính là công tử Mã Kim Khu, con trai quan Hình bộ Thượng thư Nam Kinh.

Gã ỷ thế cha nên chạy xộc vào tận nơi xảy ra huyết án, mà đám Bộ đầu không dám ngăn cản.

Mã công tử có thân hình phốp pháp, to lớn, mặt tròn, mắt hí, mũi lân... tóm lại là xấu xí và hơi ngốc!

Nhưng gã lại được mọi người yêu mến vì tính phóng khoáng, vui vẻ, và thẳng thắn đến mức thô lỗ.

Mã Kim Khu đắc ý kể lể và kết luận:

- Tiểu đệ theo phụ thân phá án đã nhiều năm mà chưa hề gặp một vụ phi thường thế này! Hung thủ quả là một kẻ có óc khôi hài và xảo quyệt. May mà Lưu tổng bộ đầu đã phát hiện mẩu “của quý” kia bị đao chặt đứt chứ chẳng phải do cắn! Nếu không thì nam nhân đất này chẳng dám ngủ với vợ nữa!

Gã ôm bụng cười vang vì câu nói đùa của chính mình!

Nam Cung Giao cũng cười, nhưng là cười sự bố trí non kém mà mình đã đắc ý, tưởng là chu đáo.

Một chàng công tử lên tiếng:

- Mã huynh! Vậy thì sao Cửu nương Hàn Ly Hoa lại còn bị giải đi?

Mã Kim Khu nhăn mặt:

- Tội nghiệp cho người đẹp! Tám vị phu nhân kia cứ khăng khăng đổ tội lên đầu nàng, nên Lưu tổng bộ đầu đành phải giải Hàn Ly Hoa về nha môn tra hỏi!

Chàng trai kia hăm hở hỏi tiếp:

- Thế lúc Mã huynh vào đấy thấy y phục của Hàn nữ nhân thế nào?

Mã Kim Khu cười sặc sụa:

- Hà tiểu quỷ ngươi quả là trân tráo! Ngươi mà thấy được thân hình tuyệt diệu ấy sẽ phải mất ngủ cả năm.

Hà công tử gượng cười:

- Năm Hàn Ly Hoa về Thượng thư phủ thì tiểu đệ mới mười lăm. Nghe các đàn anh tán dương hết lời nên lòng này cũng khát khao!

Cả bọn bật cười chế diễu.

Mã Kim Khu đang nhai một miếng thức ăn nên bị sặc, khí quản tắc nghẽn, ngã xuống sàn lầu, mắt trợn trắng!

Biến cố này khiến đám thế gia công tử kinh hoàng, luống cuống, chẳng biết phải đối phó thế nào.

Nam Cung Giao biết để lâu thì nạn nhân sẽ chết, liền rời bàn bước đến nghiêm giọng:

- Tại hạ là thầy thuốc mong chư vị nhường chỗ!

Vòng vây lập tức giản ra, Nam Cung Giao ngồi xuống, dựng nạn nhân lên, xoa bóp các huyệt đạo trước sau rồi vỗ mạnh vào lưng.

Miếng thịt trôi qua khỏi khí quản, trả lại hơi thở cho Mã Kim Khu.

Gã hoàn hồn, ngoác miệng chưởi:

- Mả cha Hà tiểu tử! Vì ngươi mà ta suýt chết vì nghẹn.

Thấy gã thoát chết, đám bằng hữu mừng rỡ cười dòn. Lúc này Mã công tử đã nhận ra chàng trai lạ mặt đang ngồi bên cạnh. Gã ngơ ngác hỏi:

- Phải chăng chính các hạ đã cứu mạng Khu này?

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Chút việc nhỏ chẳng đáng để công tử phải bận tâm đâu!

Nói xong, chàng đứng lên định trở về bàn. Song Mã Kim Khu đã níu chặt áo ân nhân, trợn mắt bảo:

- Các hạ xem Mã mỗ là hạng người không biết lễ nghĩa hay sao? Ơn này, ta không trả được thì quyết chẳng làm người!

Đám bằng hữu của gã nhao nhao tán thành:

- Mã huynh nói chí lý! Bậc trượng phu ân oán phải phân minh.

Mã Kim Khu cũng tự xem mình là một đại trượng phu nên lòng sôi sục nghĩa khí, vung tay nói với giọng đanh thép:

- Mã Kim Khu tôi nguyện làm thân trâu ngựa để đền ơn, dẫu ân công có sai nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng từ nan.

Câu nói sáo rỗng này đầy dẩy trong truyện võ hiệp và lịch sử đương thời.

Nam Cung Giao phì cười:

- Tại hạ chẳng phải nông phu hay xà ích nên không cần trâu ngựa. Còn như muốn chiên giòn một người to lớn như Mã công tử đây thì e chẳng đủ tiền mua dầu. Tốt nhất cứ xem như bằng hữu.

Đám thế gia công tử phá lên cười khanh khách trước câu nói ví von ngộ nghĩnh của chàng lạ mặt, và phát sinh hảo cảm.

Mã Kim Khu ngượng ngùng nhưng thầm hài lòng, hỏi lại:

- Tiểu đệ chưa được biết danh tính của ân công?

Nam Cung Giao xưng họ tên, tuổi tác rồi xin phép cáo từ.

Mã Kim Khu không chịu, cùng bạn bè lôi kéo chàng về Mã phủ, tư dinh của quan Hình bộ Thượng thư.

Phu thê họ Mã chỉ có mình Kim Khu là nam tử nối dõi tông đường nên rất tri ân và quí mến Nam Cung Giao.

Thượng thư phu nhân cho mở ngay tiểu yến ăn mừng.

Kim Khu giống cha nên thô mãng, xấu xí, nhưng bào muội của gã lại cực kỳ xinh đẹp nhờ giống mẹ.

Mã tiểu thư tên gọi Hoàn Cơ, tuổi đôi mươi nhỏ hơn Nam Cung Giao, còn Mã Kim Khu hai mươi mốt. Do vậy, Mã thượng thư đã bảo hai con gọi Nam Cung Giao là đại ca.

Mã thượng thư xuất thân võ tướng nên bắt con cái luyện tập võ nghệ gia truyền.

Hoàn Cơ tuy là gái nhưng kiếm pháp lợi hại chẳng kém Kim Khu. Tính nàng đoan trang trầm lặng, bề ngoài nhu mì, thùy mị nhưng bản chất cương nghị và quyết liệt.

Kim Khu tuy là anh mà vẫn phải ngán sợ cô em gái ít nói và cứng đầu.

Vì thế, đám vương tôn công tử đất Nam Kinh cũng kính nhi viễn chi, chẳng dám tán tỉnh nữ nhân.

Trong bửa tiệc trưa nay, Hoàn Cơ lặng lẽ ngồi cạnh mẫu thân, lén quan sát Nam Cung Giao.

Trinh Tâm là ái nữ của Tri phủ Hóa Châu Đặng Tất. Khi Trương Phụ sang An Nam lần thứ nhất để tiêu diệt Hồ Quý Ly, Đặng lão sức yếu thế cô, liền trá hàng quân Minh, được phong làm Đại Tri Châu đất Hóa. Trong công việc, họ Đặng tiếp xúc nhiều với các quan tướng Minh triều, nên Trinh Tâm giỏi tiếng Trung Hoa và thông hiểu nghi lễ Trung Nguyên. Bà đã đem những hiểu biết ấy dạy dổ con trai.

Nhờ vậy, Nam Cung Giao không đến nỗi lúng túng khi lọt vào môi trường quan cách. Chàng sử sự ung dung, đúng mực, ngôn từ cẩn trọng, không tự tôn mà cũng chẳng tự ti!

Bọn công tử luôn miệng khen ngon để lấy lòng gia chủ nhưng ăn chẳng bao nhiêu.

Nam Cung Giao không hề tán dương mà chậm rãi chén sạch những gì được Mã phu nhân bỏ vào bát.

Bà lão mỏi tay liền để khách tự xoay sở, ánh mắt chàng biểu hiện rõ sự hài lòng vì ngon miệng, khiến Mã Hoàn Cơ vui trong dạ. Nàng đã đích thân xuống bếp ra thực đơn và nêm nếm mười món ăn đặc sắc hôm nay.

Cách ăn của chàng trai kia làm nàng cảm động như gặp kẻ tri âm, đủ trình độ thưởng thức tài nấu bếp của mình. Bất giác nàng mỉm cười, mặt thoáng hồng.

Mã thượng thư tinh ý nhận ra tâm sự của ái nữ, liền cười ha hả:

- Nhìn Nam Cung hiền điệt ăn mà lão phu phát thèm! Thân nam nhi phải có phạn lượng như rồng hổ mới đủ sức vung gươm tung hoành tứ hải, hay xông pha trận mạc, giữ gìn cương thổ! Chẳng hay hiền điệt ăn nhiều vì đói bụng hay vì tài nghệ của đầu bếp?

Nam Cung Giao buông đũa vòng tay cười đáp:

- Cảm tạ đại nhân đã không chê cười tật xấu của kẻ thảo dân quê mùa thô lỗ! Thảo dân cũng định ăn qua loa để chứng tỏ mình biết thủ lễ, nhưng vì thức ăn quá ngon nên tay và miệng chẳng còn tuân lệnh nữa!

Cả nhà bật cười, riêng Hoàn Cơ tủm tỉm nói:

- Nếu Nam Cung đại ca đã tán thưởng tài mọn, ngày mai tiểu muội lại xuống bếp phụng hầu thêm vài món mới nữa!

Nam Cung Giao giật mình ngơ ngác:

- Té ra là Tiểu thư đã ra tay thánh thủ đấy ư? Thế mà tại hạ tưởng rằng một lão đầu bếp già nào đấy!

Vẻ mặt thành thực của chàng lại khơi dậy tiếng cười.

Nam Cung Giao đã khai rằng mình là con của một tiểu phú đất Các Châu, đang đi du ngoạn, nên chẳng thể từ chối sự lưu giữ của phủ Thượng thư.

Mã Kim Khu còn cho người đến khách điếm mang ngựa và hành lý của chàng về nhà mình.

Ban ngày gã lôi chàng đi khắp nơi thưởng ngoạn và ăn nhậu, nhưng bao giờ Nam Cung Giao cũng đi về phủ dùng cơm, được thưởng thức tài nấu nướng của Hoàn Cơ.

Sức ăn của chàng gấp ba người khác nên dù đã ăn ngoài cùng với Kim Khu, vẫn có thể làm hài lòng Mã Tiểu thư!

Nam Cung Giao thực lòng yêu mến Hoàn Cơ vì người có những nét giống mẹ mình trong tính cách!

Lực lượng công sai Nam Kinh vẫn ráo riết truy lùng thủ phạm sát hại Binh bộ Thượng thư Quách Tường An, nhưng chẳng có chút manh mối nào!

Lưu tổng bộ đầu đã bàn với Mã thượng thư quy trách nhiệm cho một gã đạo tặc độc hành lừng danh là Dạ Hồ Sài Tốn, dù họ sài vắng bóng đã bảy tám năm. Và trong văn án cũng chỉ ghi rằng tài sản bị cướp là hơn ngàn lượng bạc.

Thực ra rương gỗ châu báu của Hàn Ly Hoa trị giá đến ba vạn lượng vàng. Nhưng nếu khai đúng thì người quá cố sẽ lộ bộ mặt tham quan, ảnh hưởng đến thanh danh quan lại Nam Kinh!

Hàn Ly Hoa bị giam cầm khổ sở, chỉ muốn thoát ra cho nhanh nên nhất nhất cung khai theo ý Tổng bộ đầu Lưu Cát và các quan trên. Nàng lủi thủi trở về với nghề kỹ nữ vì bị Quách phủ xua đuổi.

Cáo trạng được dịch trạm đưa về Bắc Kinh.

Thiên tử thương tiếc bậc trung thần, nổi lôi đình truyền chỉ truy nã Dạ Hồ Sài Tốn trong cả nước.

Đến giữa tháng mười thì Nam Cung Giao đã làm khách của nhà họ Mã được mười sáu ngày. Chàng quyết định ra đi, mượn cớ phải đến Tô Châu thăm bà con, mặc cho Mã Kim Khu hết lời lưu khách.

Phu thê Mã thượng thư thấy thời gian qua ái nữ Hoàn Cơ luôn cười nói và tỏ ra nhu mì hiền thục, hiểu rằng nàng đã ghé mắt xanh vào Nam Cung Giao.

Tính tình vui vẻ, trung thực và dung mạo đường chính của chàng cũng đã chinh phục được vợ chồng Thượng thư. Lại thêm Mã Kim Khu cực lực tán thành nên cả nhà chờ đợi giây phút Nam Cung Giao ngỏ lời cầu hôn.

Nay chàng dửng dưng bỏ đi khiến ai cũng thất vọng nhất là Hoàn Cơ! Mặt hoa ủ dột, u ám như chiều đông, nhưng nàng vẫn cắn răng chịu đựng mối sầu ly biệt, không mở lời giữ chân người trong mộng.

Mã phu nhân cố gỡ gạc:

- Ngày mai mười bốn, không tiện xuất hành, Nam Cung hiền điệt hãy nén lại một hôm để bọn ta tổ chức tiệc tống hành.

Nam Cung Giao không tiện từ chối, đành cúi đầu phụng mạng.

Chiều hôm ấy, Mã thượng thư rủ Nam Cung Giao và Mã Kim Khu sang Cố cung uống rượu.

Người duy nhất được cư trú trong hành cung của Thiên tử chính là Thất vương gia Chu Nghiêm. Ngài là đại diện tối cao của triều đình ở phương Nam.

Chu Nghiêm là em ruột của đương kim Hoàng đế, tính tình dễ dãi, xởi lởi và có tật thích uống rượu.

Tháng nào ngài cũng tổ chức yến tiệc, mượn tiếng nghị sự, bàn bạc việc cai trị, song thực ra để nhậu cho say khướt.

Mã thượng thư không đem theo vệ binh, vì đã có Mã Kim Khu và bốn tên quân khiêng kiệu.

Mã công tử luyện được tám thành pho kiếm pháp gia truyền nên tự xưng kiếm sĩ, đi đâu cũng kè kè thanh trường kiếm có nơ bằng vàng, nạm bảy viên lục Bảo Ngọc.

Nam Cung Giao đã ném bỏ trường kiếm, văn nhã trong bộ trường bào gấm màu xám tro. Chàng luyện võ từ nhỏ, thân hình rắn chắc, đầy những bắp thịt nên không thể chối cãi khi bị Mã Kim Khu hỏi han. Chàng thú nhận rằng mình có học quyền thuật và kiếm pháp, nhưng bản lĩnh chẳng được bao nhiêu!

Hôm nay, Mã Kim Khu cùng nghĩa huynh sánh đôi, cỡi ngựa đi phía sau kiệu của Mã thượng thư.

Kim Khu say sưa nói về dự định viếng thăm Hàn Ly Hoa. Gã chưa quên được người đàn bà nhan sắc ấy. Tuy Hàn Ly Hoa vẫn được khá nhiều khách làng chơi mến thương.

Tất nhiên Kim Khu không hề dám rủ ý trung nhân của bào muội theo.

Hoàn Cơ mà nổi giận thì gã chỉ có cách chạy trốn!

Đoạn đường từ phủ Thượng thư đến Hành cung chỉ xa độ ba dặm. Hai bên đường xá nhà cửa, phủ đệ các quan nên chẳng có gì để phải đề phòng.

Khi còn cách Hành cung gần dặm, đường phố như hẹp lại vì hai tòa lâu các sừng sững, lan can nhô hẳn ra ngoài.

Trước đây, hai tòa nhà bốn tầng này được cho mướn để mở tửu điếm.

Thất vương gia thấy các quan thường ghé đấy rồi mới ngất ngưởng đến nhậu với mình, nên đã ra lệnh đóng cửa.

Giờ đây, một trở thành khách điếm, còn cái đối diện vẫn im lìm hoang phế!

Kiệu của Mã thượng thư vừa đi ngay cửa Kim Lăng đại lữ điếm. Và tòa nhà câm lặng, thì từ lan can lầu ba có một chậu hoa rất lớn, đường kính độ hơn vòng tay rơi xuống, gieo thẳng vào nóc kiệu.

Mã Kim Khu phát hiện ngay từ dầu, chỉ ú ớ hét lên chứ chẳng thể nào can thiệp kịp, vì gã ở cách cha già đến hai trượng.

Khách bộ hành cũng có người nhìn thấy, thét thất thanh và sợ hãi, ôm mặt lùi lại không dám nhìn thảm cảnh.

Chậu hoa đầy đất kia nặng hơn trăm cân, từ độ cao ba trượng rơi xuống hóa thành ngàn cân, chắc chắn sẽ đè nát người trong kiệu.

Nhưng đúng Iúc chuông treo sợi tóc ấy, Nam Cung Giao đã rời yên ngựa, lao đi như mũi tên, vung cước đá bể nát chậu hoa khi nó còn cách nóc kiệu hai sải tay.

Đất và mảnh sành rơi đầy trên nóc gỗ của kiệu nhưng không xuyên qua được.

Hai tên quân khiêng kiệu phía trước cũng bị đất phủ đầy người, may mà chúng chẳng bị thương!

Cỗ kiệu dừng lại, Mã thượng thư hốt hoảng vén màn bước ra hỏi:

- Kẻ nào đất dám ném đất đá vào kiệu của lão phu vậy?

Mã Kim Khu chưa kịp hoàn hồn, chạy đến ôm cha già, nói chẳng ra hơi:

- Phụ thân có kẻ đã ném chậu hoa vào kiệu... May mà Nam Cung đại ca... đã bay đến đá văng đi, cứu mạng phụ thân!

Gã chỉ cho Mã thượng thư thấy những mảnh sứ rơi rớt trên đường. Một đoạn vành bồn hoa còn lại đã giúp Thượng thư ước lượng được độ lớn và sức nặng của tai họa.

Ông vừa sợ vừa mừng, bước đến vỗ vai Nam Cung Giao:

- Không ngờ hiền điệt lại thần dũng tuyệt luân như vậy? Hai đời họ Mã nhà ta chịu ơn cứu tử của hiền điệt, lão phu biết lấy gì mà đền đáp đại ân này đây?

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Tiểu điệt đã ăn thủng nồi trôi rế phủ Thượng thư, nay mặt mũi nào mà kể công lao nữa đây?

Mã thượng thư hài lòng trước câu trả lời hóm hỉnh và chân tình của chàng, quyết không để vuột mất chàng rể quý. Ông là võ tướng tất phải biết cú đá của Nam Cung Giao mạnh đến dường nào. Chàng trai này có công lực tương đương với một cao thủ rèn luyện ròng rã ba chục năm.

Họ Mã đã ước đoán chính xác vì Nam Cung Giao học võ mười tám năm, cộng với thần lực bẩm sinh, chàng có tu vi cao hơn tuổi tác là phải!

Toán quan quân tuần tra đi đến nơi, bị Mã thượng thư khiển trách nặng nề, bắt họ phải lục soát ngay tòa nhà bỏ hoang kia.

Nam Cung Giao lắc đầu:

- Đại nhân đừng phí công, tiểu điệt đã nhìn thấy hung thủ. Gã mặc y phục xanh lục, không râu, vóc dáng mảnh khảnh, tầm cao trung bình. Sau khi thả chậu hoa xuống, gã đã đào tẩu bằng một thân pháp nhanh như điện.

Mã thượng thư tần ngần nghĩ:

- Lão phu mới từ quan ải về nhậm chức Nam Kinh Hình bộ Thượng thư được ba năm, chưa có dịp chém một tội nhân nào, sao lại gây thù oán với ai được?

Lão buồn rầu ra lệnh quay về phủ không đến Hành cung nữa!

Trong lúc Mã phu nhân hết lời cảm tạ Nam Cung Giao, Thượng thư cho gọi Tổng bộ đầu Lưu Cát và Tổng binh Nam Kinh đến.

Nghe kể lại vụ ám sát hụt hai người tái mặt, hứa sẽ dốc sức điều tra và cho quân bảo vệ phủ Thượng thư.

Hệ thống hành chính ở Nam Kinh khá phức tạp.

Việc trị dân thuộc trách nhiệm Tri huyện Kim Lăng, gồm thành Nam Kinh và vùng nông thôn phụ cận.

Song việc trị an trong thành lại là phận sự của Tổng binh và Tổng bộ đầu, dưới quyền điều động của Binh bộ Thượng thư và Hình bộ Thượng thư.

Nay Quách Tường An đã chết chưa có người thay thế, nên quyền hành tập trung cả vào tay Mã thượng thư. Ông chỉ phải phục tùng Thất vương gia mà thôi!

Lưu tổng bộ đầu rụt rè nói:

- Bẩm đại nhân! Việc gã Nam Cung Giao xuất hiện ở Nam Kinh đúng lúc xảy ra huyết án ở Quách phủ, lại giấu giếm bản lãnh cao cường, khiến ty chức hoài nghi lai lịch của y. Mong đại nhân cẩn tâm đề phòng!

Mã thượng thư quắc mắt nạt:

- Túc hạ chớ nói càn! Giao nhi nhân phẩm cao quí, tâm địa trong sáng như nhật nguyệt, sao lại có thể là hung thủ giết Quách Tường An được? Hay là túc hạ cho rằng lão phu đã đui mù!

Cơn thịnh nộ của Thượng thư đã khiến Lưu Cát sợ đến nhũn người, vội tụt khỏi ghế, quỳ xuống tạ tội:

- Ty chức mới là kẻ có mắt không tròng, xin đại nhân khai ân tha cho kẻ thuộc hạ ngu xuẩn này!

Phạm tổng binh cũng hết lời xin xỏ cho đồng liêu nên Mã thượng thư nguôi giận, lạnh lùng bảo Lưu Cát ngồi vào ghế.

Hai người chỉ ở lại thêm một lúc đã cáo lui.

Ra đến ngoài, Phạm tổng binh trách họ Lưu:

- Lưu huynh tinh minh, mẫn cán nhưng còn kém trong nghệ thuật làm quan! Dẫu Nam Cung Giao có đúng là hung thủ sát hại Binh bộ Thượng thư thì lão Mã Xuân Trác kia cũng chẳng cần biết đến! Đại ân cứu mạng cả cha lẫn con họ Mã lớn hơn non Thái, có sá gì cái chết của một kẻ kình địch chốn quan trường?

Lưu Cát hổ thẹn đáp:

- Tiểu đệ quen tính trực ngôn nên lỡ lời! Từ nay sẽ khâu kín cái miệng này lại.

Đêm ấy, phủ Thượng thư bình an vô sự nhưng đến sáng thì cả Nam Kinh náo động vì vụ án ghê rợn ở kỹ viện Hồng Loan các.

Nàng danh kỹ Hàn Ly Hoa đã bị bóp cổ đến chết.

Hung thủ còn tàn nhẫn cắt lìa đôi môi tuyệt đẹp của nàng!

Mã thượng thư bù đầu vì vụ huyết án nên tiệc tống hành Nam Cung Giao bị bãi bỏ.

Ngay trưa mười bốn, chàng thản nhiên thu xếp hành lý đòi lên đường ngay.

Mã thượng thư rầu rỉ nói:

- Lão phu đang phải đối phó với một kẻ thù ẩn mặt và lợi hại, vốn trông cậy vào hiền điệt bảo vệ gia quyến. Nay hiền điệt nỡ nào dứt áo ra đi như vậy?

Nam Cung Giao mỉm cười.

- Tiểu điệt ở lại đây thì hung thủ không dám đến để đại nhân bắt! Khi tiểu điệt ra đi, một là gã sẽ chặn đường, hai là tìm đến đây.

Mã thượng thư mừng rỡ cười ha hả:

- Té ra hiền điệt bày kế điệu hổ ly sơn. Lão phu sẽ chia hai lực lượng, giăng lưới chờ đợi con mồi.

Mã Hoàn Cơ bây giờ mới rõ, lòng thầm hổ thẹn vì đã hiểu lầm chàng trai dũng lược. Nàng thỏ thẻ:

- Đại ca có đoán được hung thủ là ai không mà dám quyết đoán như vậy?

Nam Cung Giao tư lự:

- Ngu ca đã hình dung được gương mặt của kẻ ném bồn hoa hôm qua. Lão ta tuổi độ sáu mươi, mắt rất sáng, đầy vẻ xảo quyệt và tàn độc. Sau cái chết của Hàn Ly Hoa, ngu ca cho rằng lão già kia chính là Dạ Hồ, kẻ đang bị triều đình truy nã. Có thể lão không giết Quách thượng thư nên tức giận, trả thù những người liên quan!

Mã thượng thư chột dạ hỏi:

- Vì sao hiền điệt lại biết Dạ Hồ không giết Quách Tường An?

Nam Cung Giao mỉm cười, chỉ Mã Kim Khu:

- Bẩm đại nhân, chính Mã hiền đệ đã kể cho tiểu điệt biết kế di họa giang đông của đại nhân và Lưu tổng bộ đầu.

Mã Xuân Trác ngượng ngùng nhưng yên tâm vì chàng rể tương lai chẳng có gì đáng nghi!

Ông nói lảng sang chuyện khác:

- Dạ Hồ Sài Tốn giỏi đao pháp, hiền điệt không có vũ khí e sẽ thiệt tḥòi, lão phu xin tặng một thanh bảo kiếm để hiền điệt phòng thân.

Thượng thư vào ngọa thất, lát sau trở ra, tay cầm một thanh kiếm cũ kỹ, chuôi bằng sừng đen bóng, võ bằng da lạc đà, có chỗ đã trụi lông. Thanh kiếm này dài hơn kiếm thường độ gần gang tay. Chứng tỏ chủ cũ của nó phải là người cao lớn.

Mã thượng thư rút kiếm khỏi võ, để lộ nước thép xanh ngời. Ông hào hứng nói:

- Bảy năm trước, lúc lão phu còn trấn giữ quan ải, được mật báo rằng có gián điệp Mãn Châu lén vượt trường thành. Lão phu liền bố trí phục binh, bắn chết toán cao thủ Mãn Châu ấy, và tịch thu được thanh bảo kiếm này. Không hiểu nó được đúc bằng loại thép gì mà lại nặng gấp đôi kiếm gia truyền của tổ phụ để lại nên không dùng đến. Nay hiền điệt thần lực hơn người, chắc sẽ vừa tay!

Nam Cung Giao nhận lấy, vòng tay cảm tạ rồi búng thử vào thân kiếm, lắng nghe tiếng thép ngân trong trẻo và kéo dài. Quả thực là nó rất tốt và vừa tay, chàng tự nhủ sẽ đặt tên nó là Lạc Điểu.

Cả nhà ra tận cổng phủ tiễn đưa Nam Cung Giao, cố ý để người ngoài trông thấy.

Chiều hôm ấy, Nam Cung Giao đã rời xa Nam Kinh được bốn chục dặm, về hướng Bắc.

Đường quan đạo vắng vẻ vì lữ khách đã ghé cả vào quán trọ. Tuy là thời bình nhưng cũng ít người dám đi đâu, bởi trời tối tăm, chẳng thể nhìn rõ đường sá. Vả lại, sợ bóng tối luôn là đặc tính của loài người!

Phía sau chàng bỗng vang lên tiếng vó ngựa rầm rập phi nước đại.

Nam Cung Giao ngoái đầu lại, nhận ra có đến mười kỵ sĩ áo xanh lục đang lao đến. Chàng cho ngựa đi chậm, nép vào vệ đường như muốn nhượng lối, thực ra là để phòng đánh lén.

Do vậy, toán kỵ sĩ kia đã dễ dàng vây chặt con mồi lại.

Nam Cung Giao cau mày:

- Vì sao chư vị lại bao vây tại hạ?

Lão nhân râu quắn quăn tít kia có lẽ là thủ lĩnh toán Lục y, ông ta cười nhạt:

- Phải chăng tiểu tử ngươi là kẻ đã đá bể chậu hoa, cứu mạng lão cẩu quan họ Mã đấy không?

Nam Cung Giao gật đầu hỏi lại:

- Thế Tôn giá và chư vị đây thuộc bang hội nào vậy?

Lão nhân nhếch mép:

- Trước sau gì ngươi cũng chết, lão phu chẳng cần phải giấu giếm. Bọn ta là thủ hạ của Hồ bang, và bổn Bang chủ chính là Dạ Hồ, kẻ đã bị lão Mã Xuân Trác vu oan giá họa.

Nam Cung Giao không ngờ Sài Tốn lại chẳng đơn thương độc mã mà có đông đảo thủ hạ thế này! Nay lão không xuất hiện, chỉ cho tay chân chặn đường thường, tức sẽ đích thân xâm nhập Mã phủ.

Tuy phủ Thượng thư được canh phòng cẩn mật, nhưng bọn vệ binh chưa chắc đã phát hiện nổi một đại cao thủ về khinh công như Dạ Hồ! Sài Tốn chỉ cần cho vài tên bang chúng gây hỗn loạn là sẽ có cơ hội âm thầm tiến sâu vào hậu viện!

Cảm kích ân tình của nhà họ Mã, Nam Cung Giao quyết kết liễu cuộc chiến ở đây thật nhanh, rồi quay lại Nam Kinh.

Chàng nói nửa đùa nửa thật:

- Tại hạ sợ vạ lây nên đã rời khỏi phủ Thượng thư! Mong chư vị cứ lấy hết vàng bạc và tha cho cái mạng nhỏ bé này! Tại hạ được Mã thượng thư ban cho đến hơn ngàn lượng vàng đấy.

Vàng là thứ kim loại hấp dẫn nhất thế gian! Vì nó, con người sẵn sàng giết cả cha mẹ, anh em hay bằng hữu. Bọn hán tử áo xanh lục này đi theo Sài Tốn cũng vì ham lợi, nay nghe nói đến ngàn lượng vàng thì tên nào cũng nhấp nhỗm.

Nam Cung Giao móc trong lưng ra một xấp ngân phiếu, ném rải lên đầu hàng ngũ đối phương.

Thế là chín gã đao thủ Hồ bang nhao nhao nhảy xuống đất, giành giật nhau những tờ ngân phiếu.

Lão nhân râu quăn bối rối quay lại quát tháo:

- Bọn ngươi làm thế thì bổn bang còn ra thể thống gì nữa!

Lão chợt phát giác ra mình đã sơ hở khi rời mắt khỏi con mồi.

Lão quả có lý vì Nam Cung Giao đã rời lưng ngựa, như cánh chim ưng giương mắt chụp lấy mục tiêu.

Chàng dồn toàn lực vào chiêu Điểu Trảo Niên Dương (Móng chim bắt dê non), kiếm ảnh tua tủa, tỏa khí lạnh căm căm, vây kín thân trên đối thủ.

Lão nhân râu quắn bản lĩnh cao cường nên mới được Dạ Hồ giao sứ mạng hạ sát Nam Cung Giao, người có cú đá mạnh ngàn cân. Nhưng Sài Tốn không biết rằng chàng trai trẻ kia giỏi kiếm pháp còn hơn quyền thuật, và khi Nam Cung Giao ở thế “xuất kỳ bất ý công kỳ vô bị”, nghĩa là đánh lén, thì khó ai được an toàn.

Thanh Lạc Điểu kiếm tuy không sắc bén như thần binh thời Xuân Thu, nhưng được cái nặng nề và cứng rắn phi thường. Do đó, chiêu kiếm của Nam Cung Giao mãnh liệt như núi Thái đang đổ ập xuống.

Lão nhân râu quắn cắn răng múa kiếm chống đỡ một cách tuyệt vọng, và rú lên thảm khốc, rơi khỏi mình ngựa.

Ngực lão thủng đến bốn lỗ, tay hữu đứt lìa!

Nam Cung Giao không dừng bước, điểm chân vào đầu ngựa của lão râu quắn, bốc lên cao, chụp lưỡi kiếm xuống bốn tên áo lục đang cãi cọ, giằng co nhau một tờ ngân phiếu.

Tiếng thét thê lương của đầu lãnh khiến chúng ngơ ngác, quay lại nhìn, nhưng chưa kịp rút đao. Thanh Bảo kiếm Lạc Điểu dài hơn kiếm thường nên phạm vi sát thương khá rộng, đâm thủng đủ bốn đỉnh đầu của những kẻ được phát tài! Chúng có thể tự an ủi rằng mình đã lìa đời trong tư thế của người giàu có, vì trong tay mỗi tên đều cầm đến ba bốn tờ ngân phiếu!

Năm gã bang chúng còn lại thất kinh hồn vía, múa đao xông đến. Họ thi triển cùng một loại đao pháp rất lợi hại. Vậy là, bảy tám năm qua, Dạ Hồ đã âm thầm chiêu mộ thủ hạ và dạy cho chúng đao pháp của giòng họ Sài!

Đây là lần đầu tiên Nam Cung Giao thực sự chiến đấu, trực diện đối phó với kẻ thù. Chàng phấn khởi vũ lộng thanh bảo kiếm, thi thố hết sở học.

Trinh Tâm là nữ trung hào kiệt, tánh tình cương liệt, nghiêm khắc. Khi dạy kiếm cho con trai, bà bắt con phải cùng mình tỷ thí. Trinh Tâm ra đòn rất hiểm ác chứ không hề nương tay, cứ như bà đang chiến đấu với kẻ thù vậy.

Thanh kiếm gỗ của bà đã liên tục gây ra những vết thâm tím trên thân thể Nam Cung Giao. Nhưng nhờ vậy mà kinh nghiệm giao đấu của chàng trai trẻ không đến nỗi nghèo nàn! Trừ phi đối thủ thông minh và biến hóa hơn Trinh Tâm mới có thể làm khó được chàng!

Khi bị giáp công, bốn phương đều có địch, Nam Cung Giao sở cậy rất nhiều vào pho khinh công Lạc Điểu thân pháp. Chàng nhấp nhô lên xuống, di chuyển linh hoạt giữa vòng vây, chống trả rất hữu hiệu!

Nóng lòng trở lại phủ Thượng thư, Nam Cung Giao giở hết những chiêu sát thủ. Chàng nhảy xổ vào gã béo trước mặt xuất chiêu Lạc Điểu Nam Phi (Chim Lạc bay về Nam), mũi kiếm hóa thành trăm bóng ảnh chập chờn, uy hiếp thân trên hán tử to béo. Gã hung hản rùn người, tung ra những đòn đao mãnh liệt.

Không có tiếng thép chạm nhau, chỉ có tiếng thét rợn người.

Nam Cung Giao lại đảo thân chống đỡ chiêu đao của gã mé hữu, trong chớp mắt đã thọc mũi kiếm vào sườn đối phương.

Đắc thủ chàng đề khí bốc lên không trung, xà xuống đầu tên thứ ba.

Kiếm dài, đao ngắn, gã bang chúng Hồ bang bị đâm thủng trán.

Hai tên cuối cùng sợ mất mật tháo lui, quay lưng đào tẩu theo hai hướng khác nhau.

Nam Cung Giao không chút chần chờ, phóng trường kiếm vào lưng một tên và đuổi theo tên thứ hai.

Thanh kiếm như mũi trường tiễn rời dây cung bay vút đi và xuyên qua hậu tâm gã bang chúng hướng Bắc.

Thủ pháp này Nam Cung Giao đã phải khổ luyện suốt nhiều năm ròng. Kiếm bay đi nhờ uyển lực, tức sức mạnh ở cổ tay, chứ chẳng phải cánh tay. Đây chính là căn bản của phép ném ám khí.

Tiếng rú thảm thiết vừa vang lên thì chàng đã đuổi kịp gã bang chúng thấp lùn.

Thấy chàng tay không vũ khí, gã yên tâm quay lại chiến đấu. Quả thực là nắm tay bằng thịt bị kém thế lưỡi đao sắc bén.

Nam Cung Giao không dám va chạm, chỉ liên tục di chuyển, chờ cơ hội nhập nội.

Song đối phương cũng biết chàng cước pháp ngàn cân nên không dám mạo hiểm đối đòn, chỉ tận dụng đao pháp ảo diệu mà chiếm thượng phong. Gã không biết một điều là càng đánh lâu dài thì Nam Cung Giao càng nắm được tinh túy của pho quyền pháp gia truyền. Vả lại, chàng dẻo dai và bền sức hơn gã rất nhiều.

Một khắc sau, hán tử kia toát mồ hôi hột, hơi thở hỗn loạn, đường đao lộ nhiều sơ hở. Gã kinh hoàng nhận ra đối phương vẫn ung dung, và liên tiếp tung ra những đòn như sấm sét.

Dường như Nam Cung Giao đã tìm ra cách phối hợp pho khinh công Lạc Điểu với pho quyền, cước bộ chàng nhanh nhẹn phi thường, thân ảnh chập chờn khiến đối thủ hoa cả mắt.

Chàng đã nhận ra cơ hội, ập vào như cơn lốc, đảo người tránh một đòn đao quét ngang, thì tay tả chụp lấy cổ tay phải hán tử và tung cước đá vào bụng gă.

Thân hình nạn nhân văng ngược về phía sau hơn trượng, nằm im bất động.

Nam Cung Giao hài lòng chạy đi thu lại trường kiếm và những tờ ngân phiếu.

Nhìn mười tử thi nằm rải rác, chàng bỗng rùng mình bất nhẫn, cảm thấy ghê sợ bản thân!

Gương mặt người chết thường hiền lành, hoặc đầy nét khổ sở vì đau đớn, chứ chẳng hề dử tợn hay gian ác. Chàng áy náy nhìn quanh, tìm chỗ khả dĩ chôn cất thi hài những kẻ xấu số.

Mé Tây quan đạo là ruộng lúa nước mênh mông, còn hướng Đông có ngọn đồi nhỏ ngổn ngang đá tảng, cách đấu trường độ mười trượng!

Nam Cung Giao thở dài cặp nách một lần hai xác, đi năm lượt thì mang hết mười nạn nhân đến chân đồi.

Thấy có ba tảng đá nằm gần nhau, tạo thành khe trống, chàng xếp tử thi vào đấy rồi ôm những tảng đá nhỏ hơn chất đè lên. Xong xuôi, chàng mệt lả người, y phục thấm lem vì máu và bụi đất.

Nam Cung Giao nhăn nhó tự chế giễu:

- Ta thật là lẩn thẩn, giết người xong lại phải chôn cất và áy náy trong lòng! Thôi thì lần sau bỏ chạy cho đỡ mệt xác!

Chàng mỉm cười, trở ra quan đạo, lần ngựa phi nước đại về hướng Nam Kinh.

Mười con ngựa của phe Hà Bắc vẫn còn thản nhiên gặm cỏ, nhưng khi trời sụp tối, chúng sẽ chạy về nơi xuất phát.




Cơn mưa cuối thu ập xuống, gội sạch đất, máu trên áo quần lữ khách, và làm dịu nỗi băn khoăn.

Nam Cung Giao nghe đói bụng nhưng không dám dừng chân, cuối canh hai về đến cửa Bắc thành, lúc này cơn mưa đã ngừng rơi.

Chàng ghé vào quán trọ bên đường, thay y phục, nuốt vội tám chén cơm, rồi đi bộ vào thành. Chàng lầm lủi bước nhanh, hơn khắc sau đã có mặt trên mái ngói đại sảnh của phủ Thượng thư.

Vệ binh trong phủ rất đông mà không phát hiện được sự xâm nhập của chàng thì Dạ Hồ Sài Tốn vào chẳng khó.

Mãy mù đã tan, trăng thu ló dạng soi sáng cảnh vật đất Nam Kinh.

Nam Cung Giao nép mình vào một góc tối, nằm ngửa ngắm vầng trăng, nhớ đến song thân và hai em. Nhị muội chàng là Lộc nhi mới lên tám, còn cô bé Hà nhi sáu tuổi.

Quê ngoại chàng là thôn Can Lộc phủ Hà Tĩnh nên hai em mang tên ấy để thể hiện ḷòng hoài hương của người nữ tướng đất An Nam. Ngay tên Giao của chàng cũng thuộc về xứ sở Giao Châu!

Gió thu hiu hiu lạnh, ru chàng trai trẻ vào giấc ngủ. Chàng ta đã quá mệt nhọc vì trận tử đấu và phải giong ruổi gần trăm dặm.

Giữa canh tư, Nam Cung Giao giật mình thức giấc, dụi mắt nhìn quanh. Dù không có động tĩnh gì nhưng chàng vẫn chẳng dám ngủ tiếp, ngồi cảnh giới.

Từ vị trí cao chót vót này, chàng có thể bao quát toàn bộ khu vực.

Gần khắc sau, có kẻ nào đó đã ném những trái yên cầu qua tường vây rơi vào sân trước, tỏa khói mít mù.

Loại khói này làm cay mắt đám vệ binh, chúng sợ hãi ôm mặt la hét, chẳng còn thấy đường mà chiến đấu.

Và sau đó, gần chục Hắc y nhân vượt tường xông vào phủ. Chúng lạnh lùng chém giết những tên vệ binh mù lòa, không phương né tránh hay chống cự!

Nam Cung Giao phẩn nộ trước thủ đoạn tàn nhẫn của Hồ bang, chút băn khoăn ban chiều đã biến mất.

Dĩ ác diệt ác là quy luật của sinh tồn, kẻ ác đánh mất nhân cách là tự đặt mình ra ngoài vòng bao dung của đạo trời.

Chàng không dám suy nghĩ lâu, quay về quan sát hậu phủ.

Chín tên Hắc y kia chỉ là những con chốt thí của Dạ Hồ. Chúng hoàn toàn không có sinh lộ khi đánh vào đây!

Nam Cung Giao thiếu kinh nghiệm giang hồ nhưng thừa hưởng được trí tuệ siêu phàm của mẫu thân, tâm cơ ngày càng sắc sảo. Chàng luận việc chính xác, vì một bóng đen đã cánh dơi đêm lướt trên những ngọn hòe cao vút, trong vườn hoa phía sau tiến vào khu hậu viện. Chỉ Dạ Hồ mới có được thân pháp thượng thừa ấy!

Tiếng la hét, ồn ào phía trước đã che lấp tiếng động trên ngọn cây. Lực lượng công sai và vệ binh không thể ngờ đến việc kẻ thù đang di chuyển trên đầu mình. Họ chỉ lo cố thủ vị trí đã được giao phó chờ lệnh mới xông ra!

Giữa tòa đại sảnh hai tầng và khu hậu viện có một vườn cảnh nhỏ.

Hiện giờ, Hình bộ Thượng thư Mã Xuân Trác và Tổng bộ đầu Lưu Cát đang đứng giữa toán công sai bàn bạc.

Mặt trận tiền sảnh đã có Phạm tổng binh đối phó.

Nam Cung Giao đã phục sẵn trên lan can lầu chờ đợi.

Dạ Hồ thì hạ thân xuống mái hậu viện, êm ái lướt ra phía trước. Lão xác định xong chỗ đứng của Mã thượng thư, ném hai trái yên cầu, rồi nhảy xuống phủ lưỡi đao vào đầu họ Mã.

Hình bộ Thượng thư võ nghệ siêu quần, nhiều phen vào sinh ra tử nên phản ứng cực kỳ thần tốc. Dù mắt cay xè và đau nhức như bị kim đâm, ông vẫn bình tĩnh múa tít bảo kiếm che chở thân trên.

Dạ Hồ điều nghiên địa thế rất kỹ, nhưng lại không biết lão quan già bảy chục tuổi này là cao thủ, và suốt năm mươi năm chưa hề bỏ bê việc luyện công!

Đao kiếm chạm nhau chan chát, Dạ Hồ nghe hổ khẩu tê rần, thầm ngán sợ công lực của Mã thượng thư.

Lão bị dội ra, rơi xuống, liền điểm chân lên vai một gã bộ đầu, bốc cao hơn trượng, lặng lẽ bổ đao vào đầu Mã thượng thư.

Mã lão đoán rằng đối phương đã rơi, tất chiêu thứ hai phải tấn vào trước hoặc sau người mình. Ông biến chiêu, không chú ý đến phía trên nhiều. Ông không ngờ rằng Sài Tốn giảo hoạt, đa mưu như chồn cáo nên mới có danh là Dạ Hồ.

Mã Kim Khu và Mã Hoàn Cơ chạy ra đến hành lang dãy nhà hậu viện, nhìn thấy rõ thảm cảnh khói cay hơi nặng nên đã lắng xuống, không còn che phủ nhãn tuyến nữa. Tác dụng chính của nó là làm mù tạm thời những đôi mắt đối phương.

Hai anh em họ Mã kinh hoàng nhảy qua lan can hành lang, chạy đến cứu cha già.

Khoảng cách quá xa khiến mọi nỗ lực của họ trở thành vô dụng, kể cả tiếng la cảnh báo của Mã Kim Khu:

- Cha! Trên đầu.

Nhưng lúc đao Dạ Hồ còn cách mái tóc hoa râm của họ Mã một gang thì lão bị một đạo kiếm quang lạnh buốt bay đến nuốt chửng, và thổi văng đi.

Một trận mưa máu rơi theo xác Dạ Hồ!

Nam Cung Giao hạ thân đứng cạnh đấy, trong tiếng hô vang của Mã Kim Khu:

- Nam Cung đại ca!

Nghe đến tên rể quí, Mã Xuân Trác biết rằng tai họa đã qua, dừng kiếm quát hỏi:

- Giao nhi! Kẻ địch đâu rồi?

Cách gọi thân thiết này khiến Nam Cung Giao chạnh lòng. Chàng chưa kịp đáp thì Hoàn Cơ đã đáp thay:

- Gã ta đã bị Nam Cung đại ca đâm chết rồi!

Mã thượng thư cười ha hả:

- Giao nhi giỏi lắm. Lão phu lại mắc nợ ngươi nữa rồi!

Nam Cung Giao không đáp, nói với Hoàn Cơ:

- Hiền muội bảo gia nhân mang nước sạch ra đây cho đại nhân và những người kia rửa mắt!

Phạm tổng binh vào đến, vui vẻ báo rằng chín tên Hắc Y đã bị loạn tiễn bắn chết!




Sáng hôm sau, mượn cớ trở lại khách điếm ở cửa Bắc thành lấy ngựa và hành lý, Nam Cung Giao rời khỏi Nam Kinh, từ giã bằng hai câu thơ.

Khổ hải mang mang chu vô độ!
Tam niên vị tử điểu qui sào!

Dịch:

Biển khổ mênh mông thuyền chẳng bến.
Ba năm chưa chết sẽ quay về!

Mã Tiểu thư không khóc thành tiếng nhưng lệ doanh tròng, sắc diện cực kỳ thống khổ!

Mã thượng thư an ủi ái nữ:

- Xem ra lai lịch Giao nhi có nhiều uẩn khúc. Những y đã hẹn ba năm quay lại là đã chứng tỏ tình cảm với Cơ nhi!

Hoàn Cơ cười lạnh:

- Nay chàng đã lưu lại lời ước hẹn, hài nhi tự xem mình là dâu họ Nam Cung, quyết sánh vai trượng phu hành hiệp! Hài nhi tính tình nóng nảy chẳng thể chờ đủ ba năm được!

Mã phu nhân biết tính con, ngao ngán nói:

- Cơ nhi cứ đi! Nhưng phải ghé qua Tây Hà sơn, nhờ nhị sư thúc hộ tống. Có thế thì ta và cha ngươi mới yên lòng!

Mã thượng thư học nghệ với Trường Giang thượng nhân, có một sư đệ là Cẩn Nhục Đầu Đà Hồ Sóc Phương. Lão này tính tình quái dị nhưng võ nghệ cao cường, suốt đời chỉ thích ăn thịt chó nên nổi danh!

Mã Kim Khu rất hợp tính với sư thúc, mừng rỡ nói:

- Nay Dạ Hồ Sài Tốn đã mạng vong, Mã phủ chẳng còn bị đe dọa, hài nhi sẽ cùng Cơ muội đi tìm Nam Cung đại ca!

Mã thượng thư suy nghĩ một lúc rồi đáp:

- Thôi được. Hai anh em ngươi cứ lên đường!


Tiếu ngạo Trung Hoa EmptyMon Nov 08, 2010 12:02 pm

Su_147617
.♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Su_147617

Tiến Sĩ
Tiến Sĩ

http://hocscinhbentre.ifno
Giới tính : Nữ
Cung : Bò Cạp
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 426
Tài khoản Tài khoản : 608
Được cảm ơn : 27
Sinh nhật Sinh nhật : 30/10/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : chỗ tui ở :D
Châm ngôn Châm ngôn : .♥..Love starts with a smile :D, develops with a kiss :* and ends with tears :((..♥.
Level: 29 Kinh nghiệm: 426%
Sinh mệnh: 426/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Tiếu ngạo Trung Hoa

 
ồi 04

Tô Châu phùng xú tử
Lộ thượng đả Hàm Đan


Đầu tháng mười một, Nam Cung Giao đến Tô Châu. Mục tiêu của chàng chính là Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long.

Chàng đã lén gặp Nguyễn Tuấn, trao cho lão số ngân phiếu vạn lượng, nhờ phân phát cho những người Giao Châu muốn trở về xứ sở, hay đang gặp khó khăn!

Nguyễn Tuấn bảo rằng Tô Châu cũng có khá nhiều người đồng hương, và đã dạy chàng phương thức liên lạc.

Sau hai mươi mấy năm, số lượng người Giao Chỉ ở những phủ phía Nam Trung Quốc đã tăng lên gấp bội. Có một số đã thoát đời nô lệ, ra ngoài mưu sinh, xây dựng được sự nghiệp.

Cùng dân tộc, cùng chịu cảnh ly hương, ngươi Giao Chỉ ở mỗi địa phương âm thầm liên kết lại thành bang để tương trợ lẫn nhau.

Trưởng Bang ở Nam Kinh là Nguyễn Tuấn, còn Trưởng bang ở Tô Châu là Đặng Kiệm! Họ Đặng tuổi năm mươi ba, là thầy thuốc trong nghĩa quân Hậu Trần, dưới trướng biểu thúc Đặng Dung, khi bị bắt về Trung Quốc trở thành nô lệ cho Mạc Tôn Long!

Họ Mạc nhờ công lao chinh phạt An Nam, được phong làm Tri phủ Giang Tô. Lúc mới về nhiệm sở, chưa dám trổ ngón tham quan ngay nên Tôn Long rất túng thiếu. Lão bèn bán bớt một số nô tỳ để có tiền xây nhà mới. Trong đó có Đặng Kiệm!

Đặng Kiệm may mắn lọt, vào một nhà đại phú nhân đức họ Hoàng. Khi Hoàng viên ngoại lâm bệnh trầm kha, các danh y trong thành Tô Châu đều bó tay, thì Đặng Kiệm trổ tài Biển Thước.

Hoàng viên ngoại thoát chết, liền giải phóng ân nhân khỏi kiếp nô lệ và gả con gái cho!

Giờ đây, Đặng Kiệm thừa kế cơ nghiệp họ Hoàng, trở thành một người có thế lực đất Tô Châu.

Về vai vế, Đặng Kiệm là biểu ca của Nam Cung Giao. Nhưng chàng không thể nhận bà con vì sợ lộ thân phận và có thể di hại đến Đặng Kiệm.

Chàng sẽ đến với lão bằng cách khác! Nguyễn Tuấn từng kể rằng Đặng Kiệm có thói quen chiều chiều uống rượu trong Cô Tô đại tửu lâu, cạnh bờ Thái Hồ. Lão được dành riêng một bàn, dù bất cứ ai cũng chẳng được ngồi vào vị trí ấy!

Hoàng gia trang vốn kinh doanh ngành tơ lụa, nhưng sau này, Đặng Kiệm đã trao nghề cũ cho vợ, còn mình mở tiền trang.

Vùng duyên hải phía Đông Nam Trung Hoa có nhiều hải cảng buôn bán với ngoại bang, nên thương lái bất cần vốn liếng. Với bốn tiền trang ở các phủ Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông. Đặng Kiệm đã trở thành Đại tài thần.

Không chỉ đám lái buôn cần tiền, mà cả các quan lớn nhỏ cũng là con nợ của họ Đặng. Tiền bạc đi đôi với quyền lực chẳng ai còn dám nhắc đến cái gốc gác An Nam man mọi của Đại thần tài nữa!

Người Trung Hoa luôn tự hào về nền văn minh rực rỡ mấy ngàn năm của mình, nên xem nhân dân tộc xung quanh là man di mọi rợ. Thực ra, vào thời bấy giờ, tuy sử dụng Hán tự, dân Giao Chỉ đã có một nền văn hóa đặc sắc riêng, không thể sánh với Trung Hoa nhưng hơn hẳn những nước trong khu vục như Cao Ly, Phù Tang, Xiêm La, Miến Điện.

Chính vì vậy Minh Thành Tổ đã ra lệnh cho Tân Thành Hầu Trương Phụ tịch thu tất cả sách vở của Giao Châu, phá hủy văn bia, chỉ để lại những gì của Trung Hoa.

Đấy là chuyện nhiều năm trước, giờ chúng ta sẽ cùng Nam Cung Giao lên lầu hai của Cô Tô đại tửu lâu.

Cô Tô là một ngọn núi có phong cảnh rất đẹp ở ngoại thành và nó là xuất xứ của hai chữ Tô Châu.

Thành Tô Châu xưa kia là kinh đô của nước Ngô cổ đại, do Mã Hạp Lư xây dựng lên. Thời Tần, Tô Châu được gọi là Ngô Huyện, thời Đông Hán đổi là Ngô Quận. Đến năm Bính Tý (1276) tức năm Cảnh Viên thứ nhất, đời vua Tống Đoan Tông, vùng đất lẫy lừng này mới có tên Tô Châu!

Cái tên Cô Tô đại tửu lâu hàm ý rằng khách có thể vừa uống rượu, vừa ngắm ngọn núi Cô Tô ở xa xa. Còn gần trước mắt chính là mặt nước Thái Hồ mênh mông, được điểm xuyết bằng rất nhiều núi đá có hình thù diễm lệ và kỳ ảo!

Nam Cung Giao lên lầu, bước đến lan can phía Tây, nhận ra Đặng Kiệm chưa có mặt. Chàng bèn ngồi xuống bàn gần đấy, gọi rượu thịt.

Tửu lâu mỗi lúc một đông người, đa số là hào kiệt võ lâm.

Nam Cung Giao không lấy làm lạ, vì lúc còn ở Kim Lăng đã nghe Mã Kim Khu kể về việc Tổng Trấn Quân Vụ Tích Giang hiệu triệu khách giang hồ đến giúp mình đương cự bọn hải tặc Phù Tang (Nhật Bản).

Mấy trăm năm qua, bọn giặc lùn luôn là mối hiểm họa của miền duyên hải phía Đông Trung Hoa. Thỉnh thoảng, chúng từ biển khơi tập kích vào đến tận Nam Kinh, quân triều đình phải tốn hao xương máu mới đuổi ra được.

Nhưng vài năm nay, hải tặc Phù Tang liên tiếp bị thất bại bởi lực lượng kiêu dũng, thiện chiến của Tổng trấn quân vụ Tích Giang Vương Trọng Hưng (Tích Giang gồm hai phủ Giang Tô và Chiết Giang).

Vương Tổng Trấn chính là đương kim Minh chủ, quê ở Thượng Hải, được Minh Đế đặc cách phong quan tước giao nhiệm vụ đối phó với giặc Phù Tang!

Tuy ông đã từ nhiệm nhưng vẫn được võ lâm kính trọng. Cả hai phe Hắc Bạch đều lũ lượt kéo đến giúp đỡ.

Trong vòng ba năm, nhờ những cao thủ này mà Vương Tổng Trấn đã sáu lần tiêu diệt quân thù, bảo vệ được sinh mạng và tài sản của lê thứ.

Bọn hải tặc Phù Tang có rất nhiều tay kiếm giỏi, nhưng gặp phải cao thủ Trung Nguyên đành chịu thất bại.

Sáu tháng nay, tình hình ven biển đã yên bình, các hào kiệt dưới trướng họ Vương được phép giải ngũ. Họ về Tô Châu nghỉ ngơi, hưởng lạc. Khi còn trong quân ngũ thì bị ràng buộc bởi quân pháp, ai cũng một lòng chống giặc. Nhưng giờ đây, bản chất anh hùng cá nhân của đám hào khách có dịp biểu lộ. Chính tà lưỡng lập, tuy không đến nỗi chém giết nhau nhưng mỗi nhóm đều ngồi riêng!

Nam Cung Giao thích thú ngắm nhìn các võ sĩ Trung Hoa. Họ rất đa dạng gồm nhiều thành phần, xuất thân từ các địa phương, các môn phái khác nhau. Hầu hết đều ở lứa tuổi từ hai mươi lăm đến bốn mươi, vẻ cao ngạo, đắc ý hiện rõ trên dung mạo của những bậc anh hùng này. Họ tự hào vì đã có công lao với xã tắc nên nói cười sang sảng, kể lể những chiến công oanh liệt!

Bàn của Đặng Kiệm không có ghế nên chẳng xâm phạm. Do vậy, người khách vừa lên ngơ ngác nhìn quanh rồi tiến đến những bàn có ít người, xin được ngồi chung. Nhưng có lẽ do bộ dạng của hắn không gây được thiện cảm nên bị những bậc anh hùng kia lạnh lùng từ chối!

Vị khách này là một chàng trai tuổi đôi mười, võ phục bằng vải thô màu đen cũ kỹ, có đôi chỗ vá, lại rộng thùng thình cứ như là đi mượn hay trộm cắp của ai. Hắn lại thọt chân, bước đi khập khiễng, đầu tóc thì chẳng gọn gàng, vài trăm sợi ngắn dài phủ lòa xòa trên gương mặt rám nắng. Đôi môi hắn gọn gàng, nhưng lại lệch một bên, và trên cặp mắt to đen linh lợi kia là cặp chân mày cao thấp chẳng đều.

Chàng trai áo đen tội nghiệp ấy vẫn mỉm cười dù bị khinh rẻ. Hắn đã đến bàn của Nam Cung Giao, không mở lời hỏi xin chỉ nhìn chàng bằng ánh mắt vui vẻ!

Nam Cung Giao đưa tay:

- Mời huynh đài ngồi chung với tại hạ cho vui?

Chàng áo đen cười rạng rỡ:

- Huynh đài có lời mời dùng bữa, tiểu đệ vô vàn cảm kích!

Nam Cung Giao phát hiện đối phương có hàm răng trắng đều rất đẹp, và chàng cũng hiểu ẩn ý của gã. Chàng chỉ cho phép ngồi cùng bàn nhưng gã lại gài chàng phải đãi ăn.

Nam Cung Giao tủm tỉm cười:

- Các hạ quả là người nhanh nhẩu? Xin cứ tùy tiện gọi thức ăn, tại hạ sẽ chiêu đãi!

Hán tử hớn hở an tọa, mở thực đơn ra gọi liền một lúc sáu món thượng hạng và một, vò rượu Thiệu Hưng năm mươi năm. Gã nheo mắt bảo khổ chủ:

- Tiểu đệ là người biết lễ nên chỉ gọi bấy nhiêu thôi!

Nam Cung Giao vẫn điềm nhiên:

- Nếu thích, các hạ có thể chọn thêm vài món nữa!

Chàng trai áo đen hơi ngỡ ngàng, liếc nhìn rõ bộ võ phục vải thô trên người nạn nhân băn khoăn nói:

- Huynh đài không bỡn tiểu đệ đấy chứ? Trông lại huynh đâu hơn gì tiểu đệ?

Nam Cung Giao gật gù:

- Đúng thế! Nhưng cùng lắm thì ta và các hạ ở lại đây làm công cho tửu lâu mà trừ nợ!

Nhìn ánh mắt hoài nghi, tinh minh của chàng, hán tử áo đen biết ngay chàng nói đùa. Hắn phì cười:

- Té ra huynh đài cũng biết bỡn cợt người?

Hắn yên tâm cao giọng ra lệnh cho tiểu nhị:

- Ngoài sáu món vừa rồi, ngươi nhớ bưng thêm món tráng miệng nữa nhé!

Rồi hắn quay lại tự giới thiệu:

- Tiểu đệ là Mộc Kính Thanh hai mươi tuổi quê ở Chiết Giang, dám hỏi đại danh của huynh đài?

Nam Cung Giao xưng tên tuổi, quê quán, Mộc Kính Thanh nhăn nhó nói:

- Tiểu đệ nhỏ hơn hai tuổi xin nhận phận em! Để mừng buổi tương phùng, tiểu đệ xin kính đại ca một chung!

Nam Cung Giao tính tình phóng khoáng, đại lượng, dù bị ai chơi gác cũng chẳng hề giận. Chàng vui vẻ cùng Kính Thanh ăn uống lại còn khen gã khéo chọn thực đơn! Thái độ của chàng đã khiến Kính Thanh lấy làm lạ và rất khâm phục.

Gã cảm động nói:

- Tiểu đệ quả may mắn khi được làm em của Nam Cung đại ca!

Chàng cười khà khà:

- Ngươi đừng tưởng bở, nếu sau này ngươi phạm lỗi thì đại ca sẽ phát vào mông đấy!

Kính Thanh thoáng giật mình, chụp chung rượu ngửa cổ uống cạn!

Vài khắc sau bọn tiểu nhị tíu tít mang ghế ra sắp quanh bàn của Đặng Kiệm, chứng tỏ lão đã tới.

Họ Đặng đi cùng với một lão già áo gấm béo phệ, mặt vênh váo ra vẻ quan quyền. Theo sau là hai gã vệ sĩ to như hộ pháp sắc điệu dữ dằng. Hai gã này không được phép ngồi, đứng hầu như pho tượng.

Nam Cung Giao nhận ra Đặng Kiệm nhờ nốt ruồi son trên sóng mũi.

Chàng chăm chú quan sát vị biểu huynh của mình, lòng thoáng ái ngại.

Đặng Kiệm khá anh tuấn, người dong dỏng cao, râu thưa, tóc đen nhánh, mắt sáng, thường liếc nhanh.

Nam Cung Giao không thích cái cảnh Đặng Kiệm đi đâu cũng mang theo hộ vệ một cách trưởng giả như vậy!

Nhưng Mộc Kính Thanh đã hạ giọng nhận xét:

- Đại ca! Lão già cao gầy kia có tướng mạo của một kẻ gian tham, phản trắc!

Nam Cung Giao giật mình:

- Sao hiền đệ lại dám khẳng định như vậy?

Kính Thanh mỉm cười tự hào:

- Tiểu đệ được chân truyền khoa Ma y thần tướng của gia phụ, chưa hề nhìn lầm người!

Nam Cung Giao bán tín bán nghi, tự nhủ sẽ dò hỏi cho kỹ rồi mới tiếp xúc với Đặng Kiệm! Chàng giễu cợt Kính Thanh:

- Sao ngươi không trổ tài xem tướng rồi hãy tìm chỗ ngồi mà cứ phải đi lòng vòng như ăn mày vậy?

Kính Thanh gượng cười:

- Thiện ác thì dễ phân biệt nhưng tật bủn xin thì tiểu đệ chẳng thể nhìn ra!

Hai người thù tạc thêm nửa canh giờ thì bọn Đặng Kiệm rời quán. Có lẽ họ đến đây để bàn bạc chuyện gì đó chứ chẳng phải là uống rượu ngắm cảnh.

Nam Cung Giao cũng muốn trở về khách điếm, định từ giả Kính Thanh thì phát hiện gã đang nhìn về phía thang lầu với ánh mắt sợ hãi.

Chàng nhìn theo, thấy một lão già to béo, râu tóc hoa râm, mặt vàng võ và võ phục cũng toàn một màu vàng rực rỡ!

Sau lưng lão còn có hai hán tứ áo trắng tuổi tam tuần, sắc diện cũng vàng vàng trông rất giả tạo và quái dị.

Mộc Kính Thanh thớ dài nói nhỏ:

- Đại ca! Kẻ thù của tiểu đệ đã tìm đến, cái mạng thỏ bé này e khó bảo toàn! Xin cảm tạ thịnh tình của đại ca, kiếp sau sẽ báo đền!

Nam Cung Giao nhíu mày:

- Họ là cao nhân phương nào vậy? Và vì sao ngươi lại kết oán thù với họ?

Mộc Kính Thanh rầu rĩ đáp:

- Kim Diện cung ở Từ Châu quen thói ỷ thế hiếp người. Bảy tháng trước tiểu đệ vì cứu một dân nữ nên va chạm với gã Thiếu cung chủ Tiền Thanh Giám. Tiểu đệ đâm thủng bụng dưới của gã dâm tặc nên bị Kim Diện cung truy sát.

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Sao ngươi không hạ thủ thấp xuống nửa gang để gã đổi tên thành Tiền Thái giám cho xong?

Mộc Kính Thanh có nước da rám nắng nên không biểu hiện được sự hổ thẹn, nhưng đôi mắt to đen của gã thì chẳng giấu nổi ai. Gã nhăn nhó:

- Tiểu đệ đang gặp nguy mà đại ca còn bỡn cợt được ư?

Lúc này, Hoàng Y lão Giả đã phát hiện ra Mộc Kính Thanh, liền bước đến.

Nam Cung Giao nói nhanh:

- Ta sẽ giúp Thanh đệ một tay. Nhưng nếu địch không lại thì phải bỏ chạy ngay!

Kính Thanh không ngờ Nam Cung Giao lại dám vì mối tình sơ ngộ mà động chạm đến một đối thủ đáng sợ như Kim Diện cung!

Gã bật cười:

- Đại ca đã chí tình như vậy thì tiểu đệ chẳng thèm chết nữa!

Lúc này, lão áo vàng đã đứng cách bàn một trượng, cất giọng âm trầm:

- Mộc tiểu tử! Người của Kim Diện cung đã vây chặt nơi này, ngươi đừng mong tẩu thoát! Hãy khôn hồn mà bó tay chịu trói!

Mộc Kính Thanh phá lên cười hăng hắc:

- Kim Diện cung dung dưỡng cho đệ tử ức hiếp lương dân, bị bổn thiếu hiệp trừng trị là thích đáng lắm rồi, sao còn đến đây diệu võ dương oai? Ta là tùy tướng của Tổng trấn Quân vụ Tích Giang, cùng các bậc anh hùng hảo hán đây dầy công hạng mã tiêu diệt giặc Phù Tang, ai dám đụng vào là có ý làm phản đấy!

Các hào khách võ lâm nghe họ Mộc tán tụng mình là anh hùng, khoan khoái ưỡn ngực, nhìn bọn Kim Diện cung với ánh mắt đe dọa.

Dù họ không ưa gì Mộc Kính Thanh nhưng dẫu sao mấy tháng qua cũng từng cùng tham chiến đấu!

Lão già áo vàng chính là Hộ cung Đệ tam Kiếm sứ, tên gọi Tưởng Phi Diên. Thấy Mộc Kính Thanh được sự đồng tình của nhiều người, họ Tưởng hơi chột dạ.

Lão nham hiểm nói:

- Đã làm thì phải có gan chịu, sao lại kéo người khác vào đỡ đòn? Nay ngươi đã giải ngũ, lão phu sợ gì mà không dám hỏi tội? Còn ai muốn kết oán với Kim Diện cung thì lão phu chẳng dám ngăn cản!

Thanh danh Kim Diện cung lừng lẫy võ lâm hơn chục năm nay nên quả là ít có ai muốn chuốc họa vào thân! Hơn nữa, Tưởng Phi Diên còn vòng tay nói với quần hào:

- Kính cáo chư vị anh hùng! Rằm tháng này, bổn cung sẽ mở lôi đài tuyển lựa người tài đức để sánh duyên với Thần nữ Kim Diện cung là Tiểu thư Tiền Vân Mị Lão phu thay mặt bổn cung, mời chư vị thiếu hiệp đến tham dự!

Tiền Vân Mi là tuyệt thế mỹ nhân, tuổi đôi mươi được đám hào kiệt võ lâm tôn thờ khao khát. Nay nghe tin nàng kén chồng, ai nấy hớn hở nói cười quay sang ủng hộ Kim Diện cung, cứ như mình đã thành rể đông sàng vậy!

Một hán tử cao to lên tiếng:

- Này tiểu tử họ Mộc! Ngươi mau bó giáp qui hàng để Tưởng tiền bối còn phải về cung chuẩn bị lôi đài nữa!

Mộc Kính Thanh không ngờ gậy ông đập lưng ông, hậm bực đáp:

- Hạng tôm tép như Hồ Nhị ngươi mà cũng mơ tưởng làm chồng Tiền Vân Mi hay sao mà lại vuốt mông Kim Diện cung? Trong phòng the thì cái lỗ mũi to tướng, xấu xí của ngươi sẽ dùng được vào việc gì?

Hán tử họ Hồ kia quả đúng là có cái mũi to quá khổ, đỏ như chu sa, đầy những gân máu vì rượu chè. Miệng lưỡi của Mộc Kính Thanh sắc bén và độc ác luôn đánh thẳng vào nhược điểm của kẻ khác.

Quần hào phá lên cười, và có người bật thốt:

- Để ngửi trung tiện của mỹ nhân chớ để làm gì!

Hồ Nhị thẹn chín người, bị nhấn chìm trong trận bão cười làm cung chuyển tửu lâu!

Hộ Cung Kiếm Sứ Tưởng Phi Diên bực bội nói:

- Mộc Kính Thanh! Mau đứng lên theo lão phu về Kim Diện cung chịu tội!

Lão và hai thủ hạ rút kiếm thị uy!

Bỗng Nam Cung Giao cao giọng gọi:

- Tiểu nhị đâu?

Gã hầu bàn vội chạy đến.

Chàng chỉ Tưởng Phi Diên và nói:

- Ta ăn chưa xong mà bị phá đám, vậy người hãy tính tiền bàn này cho lão!

Gã tiểu nhị bối rối nhìn họ Tưởng, chẳng biết làm sao. Trong đám quần hào cũng có những người không ưa gì Kim Diện cung, hoặc biết chắc mình chẳng thể trở thành phu quân của Thần Nữ, nên chẳng đứng về phe nào cả! Họ vui vẻ đưa Tưởng Phi Diên vào thế kẹt!

- Đúng vậy! Trời đánh còn tránh bữa ăn, Kim Diện cung phải thanh toán tiền cho tửu lâu, chẳng lẻ vài lượng bạc cũng chẳng có?

Tưởng Phi Diên giận run người, sắc mặt càng vàng thêm. Lão hậm hực hỏi tiểu nhị:

- Bao nhiêu?

Gã nhẩm tính rồi cung kính đáp:

- Bẩm lão gia năm mươi sáu lượng!

Họ Tưởng giẫy nẩy:

- Làm quái gì mà nhiều thế?

Gã tiểu nhị gãi đầu, mỉm cười cầu tài:

- Bẩm lão gia! Họ gọi toàn món đắt tiền nhất của bổn điếm! Riêng vò rượu Thiệu Hưng năm chục năm này cũng đã trị giá đến mười hai lượng!

Có ai đó khích bác:

- Chưa đến sáu chục lượng mà đã sợ xem ra Kim Diện cung cũng chẳng giàu có gì!

Tưởng lão hậm hực móc hầu bao trả đủ số, rồi nhìn Nam Cung Giao bằng cặp mắt oán hận:

- Ngươi dám hí lộng lão phu là không còn muốn sống nữa rồi!

Nam Cung Giao tủm tỉm nói:

- Cảm tạ lão trượng đã chiêu đãi anh em tại hạ xin cáo từ!

Vừa dứt lời, chàng và Mộc Kính Thanh tung mình qua lan can, rơi thẳng xuống vườn hoa.

Có đến mười gã môn đồ của Kim Diện cung chờ sẳn, vung kiếm tấn công hai kẻ đào tẩu.

Mộc Kính Thanh đã rút cây nhuyễn tiên dài nửa trượng quanh lưng ra, mũi roi như đầu độc xà mổ nhanh vào ngực, bụng hai gã áo trắng trước mặt. Bọn này đều thuộc đội Bạch Y, cận vệ của Kim Diện cung, kiếm thuật rất cao cường, tính tình tàn độc nổi tiếng giang hồ. Đấu pháp của họ lại cực kỳ hung hãn và liều lĩnh nên đã vô hiệu hóa được đường roi của Mộc Kính Thanh. Nếu gã đả thương đối phương thì bản thân cũng khó mà lành lặn.

Nhưng Nam Cung Giao không có cái tâm mềm yếu như họ Mộc, chàng múa kiếm tấn công như vũ bão, đánh bạt vũ khí đối phương, trong chớp mắt đã phá thủng vòng vây, mở đường cùng Kính Thanh chạy đến cuối vườn, nhảy qua tường vây, hòa với dòng người trên đường.

Tưởng Phi Diên đã xuống đến, đuổi theo và thất vọng quay lại mắng mỏ thủ hạ:

- Bọn ngươi quả là vô tích sự, mười người mà không ngăn nổi hai gã nhãi ranh kia!

Một gã nhăn mặt biện bạch:

- Bẩm Hộ Cung! Tên Họ Mộc thì không đáng kể nhưng gã áo lam kia có chiến thuật cao siêu và công lực vô cùng thâm hậu. Bọn thuộc hạ chạm vào kiếm của gã đều bị rách hổ khẩu. May mà gã chẳng có ý giết người, nếu không thì!

Tưởng Phi Diên giật mình:

- Lạ thực! Tuổi gã ấy chỉ độ đôi mươi, sao lại có bản lãnh đáng sợ như vậy? Lão phu phải về cung bẩm báo và xin thêm cao thủ mới được.

Kim Diện cung rút quân, còn quần hào trở lại chỗ ngồi, xôn xao bàn tán về chàng trai lạ mặt.

Họ không biết tên, nên Nam Cung Giao vẫn chẳng thể nổi tiếng được!

Lúc này, Mộc Kính Thanh và Nam Cung Giao đang giã từ nhau trước cửa khách điếm.

Họ Mộc cười hì hì:

- May mà đại ca thần dũng tuyệt luân nên anh em ta mới thoát chết! Ơn này tiểu đệ chẳng dám quên, giờ xin cáo biệt! Sáng mai, tiểu đệ sẽ đến dây cùng đại ca dùng điểm tâm!

Nam Cung Giao quyết định hạ thủ Mạc Tôn Long trong đêm nay nên không giữ Kính Thanh ở lại. Chàng gật đầu, móc hầu bao đưa cho gã ba tờ tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao, trị giá ba trăm lượng bạch ngân và nói:

- Làm huynh trưởng, ta chẳng thể để ngươi thiếu thốn được. Hãy cầm lấy số bạc này mà tiêu xài!

Kính Thanh cảm động nhận lấy rồi nhấp nháy đôi mắt tinh ranh:

- Phải chăng đại ca đưa bạc ra để dũ bỏ đứa em xấu xí, tội nghiệp này?

Quả thực, Nam Cung Giao có ý ấy! Chàng không muốn Kính Thanh đi theo mình và bị liên lụy. Tội giết mệnh quan của triều đình không phải là nhỏ.

Bị nói trúng tim đen chàng hết lòng khâm phục cơ trí của Kính Thanh, cao hứng phát mạnh vào mông:

- Tiểu quỷ ngươi quả là thông tuệ! Ta đã chán ngán ngươi lắm rồi!

Kính Thanh nhăn nhó xoa mông, ấp úng trách móc:

- Đại ca kỳ quá!

Nam Cung Giao cười khà khà bỏ đi vào lữ quán của mình.

Mộc Kính Thanh đứng tần ngần một lúc, chợt mỉm cười rồi đi về hướng khác.

u canh ba, Nam Cung Giao đã có mặt trên mái ngói dinh Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long.

Tư gia của họ Mạc chỉ cách phủ đường và doanh trại quân triều đình chừng nửa dặm. Do đó, việc hạ sát Mạc tri phủ là cực kỳ mạo hiểm, nếu bị lộ, quan quân mà đến bao vây, chàng khó mà thoát nổi.

Đông đã về, tuy tuyết chưa rơi nhưng tiết trời lạnh giá.

Nam Cung Giao đã khoác thêm áo lông cừu đen, vừa chống lạnh, vừa ngụy trang cho cơ thể to lớn thêm ra. Tất nhiên, chàng đã chụp túi vải đen trên đầu, để che dấu dung mạo lẫn tuổi tác. Đối phương không nhận thấy tóc sẽ khó mà đoán được!

Theo Vương pháp thì mệnh quan mỗi địa phương phải cư trú ngay trong huyện đường, hay phủ đường, để kịp thời đối phó với những biến cố dù ngày hoặc đêm. Nhưng thực ra, bọn tham quan đều có cơ ngơi riêng đầy đủ tiện nghi, khi phải chuyển nhiệm sở họ dễ dàng bán lãi với giá cao.

Mạc Tôn Long cũng là một tên tham quan, lại may mắn trị nhậm vùng đất thịnh vượng giàu có là Giang Tô nên bòn mót được một tài sản rất lớn. Nhà riêng của lão chẳng phải chỉ một căn năm ba gian, mà là cả một trang viện đồ sộ, có đến mấy chục phòng, chưa kể những tòa nhà tiểu viện nằm giữa vườn hoa rộng.

Nam Cung Giao bối rối, không biết kẻ thù cư ngụ ở đâu mà tìm đến, đành phải giở hạ sách là bắt một người mà tra hỏi.

Nhưng có lẽ cái chết của Nam Kinh Binh bộ Thượng thư Quách Tường An đã khiến bọn tham quan chột dạ, nên Mạc gia trang được canh phòng rất nghiêm mật. Bọn vệ binh đi tuần tra liên tục và họp thành nhóm chứ không đi lẻ.

Nam Cung Giao chuyển nhanh trên mái ngói, cố tìm một con mồi.

Trời lạnh, ai cũng đóng chặt cửa phòng, quấn mền ngủ say như chết, dẫu có tiêu tiểu cũng xả vào bô chứ chẳng ra ngoài.

Nam Cung Giao lần mò một lúc lâu, chán nản định quay về khách điếm thì phát hiện căn nhà kho ở cạnh vườn hoa phía sau bốc cháy ngùn ngụt.

Đấy là nơi chứa dụng cụ làm vườn, mái lợp ngói nhưng vách bằng gỗ, nhà kho còn tiếp giáp với bếp và vài công trình nữa.

Lửa cháy rất mạnh, dường như có người tưới dầu rồi phóng hỏa.

Tiếng báo cháy vang dội đêm trường tĩnh mịch, người trong Mạc gia trang kéo đến dập lửa.

Ánh sáng từ đám cháy đã giúp Nam Cung Giao nhận ra một bóng đen đã vượt tường phía sau đào tẩu.

Chàng thở dài rủa thầm trong bụng rằng mình xui xẻo, đến đây đúng lúc Mạc Tôn Long bị trộm viếng nhà, không chừng còn mang họa thay cho tên đạo chích!

Nhưng chàng cũng tự hỏi vì sao gã kia lại phải phóng hỏa rồi mới thoát ra? Gã vác một bọc lớn trên vai tức là đã đắc thủ, đâu cần đánh động khổ chủ làm gì?

Mạc Tôn Long đã xuất hiện, y phục xốc xếch, cao giọng đốc thúc bọn vệ binh và gia đinh chữa cháy.

Tuy lão đã già hơn xưa hai mươi mấy tuổi nhưng Nam Cung Giao vẫn nhận ra những nét quen thuộc. Mẫu thân chàng là bậc tài hoa, đã vẽ lại dung mạo lẫn thần khí của từng kẻ thù. Hơn nữa, qua những lời xưng hô, đối thoại của lão già râu ba chòm đạo mạo kia với bọn thủ hạ, chàng có thể đoán chắc được lai lịch!

Nam Cung Giao hiểu ngay rằng đây là cơ hội hiếm có để chàng hạ sát lão họ Mạc, liền nhảy xuống đất, tìm chỗ thuận tiện mà ẩn thân, rồi bất ngờ điểm ngã một tên vệ binh. Chàng chụp lấy chiếc nón lá dứa của gã lên đầu mình xách thùng nước chạy đến đám cháy.
Trong cảnh hỗn loạn, ánh sáng nhá nhem chập chờn này, chẳng ai để ý đến việc có gã vệ binh lại mặc áo lông cừu đen, tay cầm kiếm chứ chẳng phải đao.

Nam Cung Giao nhẹ nhàng tiến đến sau lưng Mạc tri phủ, vung cước đá thẳng vào hậu tâm kẻ thù.

Tuy xuất thân võ tướng nhưng sau nhiều năm cai trị chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc rèn luyện, nên Mạc Tôn Long không thể phát hiện được tai họa.

Thân hình lão văng xa hai trượng rơi xuống mảnh sân gạch của căn nhà kho đang cháy.

Tiếng rú thảm khốc của lão đã khiến bọn gia đinh choáng váng, lao đến cứu ra khỏi vùng lửa nóng hừng hực. Do tư thế lúc văng đi, có người còn tưởng quan Tri phủ dũng cảm phi phàm, đã vận thành công nhảy vào tận hỏa trường để làm gương cho thủ hạ, không may trượt chân té ngã!

Nam Cung Giao đã nhanh chân lẩn mất, an toàn thoát ra. Chàng tin chắc Mạc Tôn Long không thể sống sót được!

Pho quyền pháp tổ truyền của họ Nam Cung rất chú trọng đến những đòn chân, và chàng đã luyện đến mức có thể đá gãy thân cây đường kính một gang!

Sáng ra, Nam Cung Giao vừa vệ sinh xong thì có tiếng gọi cửa:

- Nam Cung đại ca! Tiểu đệ đến dùng điểm tâm với đại ca đây!

Biết khách là tiểu tử thọt chân, miệng méo Mộc Kính Thanh, chàng mỉm cười bước ra mở cửa!

Kính Thanh vào phòng ngồi phịch xuống chiếc đôn sứ cạnh bàn, vui vẻ nói:

- Đêm qua cường đạo đột nhập Mạc gia trang, giết chết quan Tri phủ, vét sạch tủ vàng bạc và còn phóng hỏa đốt nhà. Sáng nay, quan quân đã phong tỏa cửa thành, cho lục soát khắp nơi để tìm hung thủ. Không sớm thì muộn, chúng cũng mò đến đây!

Nam Cung Giao chau mày:

- Ngươi có biết cửa thành sẽ bị phong tỏa mấy ngày không? Ta đang muốn rời khỏi chốn này!

Mộc Kính Thanh đáp:

- Ngoài vô thì được nhưng ở trong ra sẽ bị khám xét gắt gao!

Nam Cung Giao thở phào:

- Thế thì không sao! Ta đâu có mang theo tang vật!

Kính Thanh mỉm cười bí ẩn:

- Vậy đại ca cứ soạn sẵn hành lý, lát nữa ăn uống xong chúng ta sẽ cùng đi.

Nam Cung Giao mở tủ gỗ thu xếp y phục, chợt phát hiện một bọc vải khá lớn. Chàng kinh hãi mở ra xem, chết điếng người khi thấy toàn là vàng ngọc, số lượng nhiều gấp bốn năm lần số của cải mà chàng đã lấy của Binh bộ Thượng thư Quách Tường An!

Nhớ đến vóc dáng nhỏ nhắn của tên đạo chích đêm qua, chàng thức ngộ ngay vai trò của Mộc Kính Thanh.

Nam Cung Giao hít một hơi dài trấn tĩnh, cầm kiếm quay trở ra. Chàng quắc mắt nhìn gã thọt, lạnh lùng hỏi:

- Vì sao ngươi lại muốn giá họa cho ta?

Kính Thanh chẳng hề sợ hãi cười hì hì:

- Đại ca giết người còn tiểu đệ thì cướp của, chẳng xứng đôi lắm sao?

Đôi mắt Nam Cung Giao bắn ra những tia sát khí, chàng nghiến răng nói:

- Ngươi đã cố tình khám phá bí ẩn của ta, có chết cũng đừng oán hận!

Kính Thanh rùng mình khiếp vía, xua tay nói liến thoắng:

- Đại ca đừng hiểu lầm! Tiểu đệ thấy đại ca chẳng có chút kinh nghiệm giang hồ mà dám làm chuyện tày trời nên theo để giúp đỡ, chuyện trộm của chỉ là tiện tay mà làm đấy thôi! Đêm qua, nếu tiểu đệ không đốt nhà kho thì liệu đại ca có giết được kẻ thù hay không? Tiểu đệ còn phóng hỏa cả kho lương thảo trong doanh trại quân triều đình, nhờ vậy họ mới chậm chân, không đến Mạc gia trang hổ trợ!

Nam Cung Giao thầm công nhận Kính Thanh có lý! Chàng đã nhìn thấy ngọn lửa trong khu doanh trại của quân sĩ trấn thủ Tô Châu! Chàng dịu giọng:

- Đúng là ngươi đã giúp ta! Nhưng từ nay đường ai nấy bước. Ta không sát nhân diệt khẩu cũng vì câu huynh đệ, ngươi hãy đi đi!

Kính Thanh thản nhiên bấm tay:

- Nam Kinh Binh bộ Thượng thư là một, Tri phủ Giang Tô là hai, dám hỏi đại ca còn định giết bao nhiêu vị quan lớn nữa?

Nam Cung Giao biến sắc, không ngờ Kính Thanh lại suy ra cả việc chàng là hung thủ giết Quách Tường An! Gã còn sống là bí mật tày đình kia sẽ khó bảo toàn.

Chàng lẩm bẩm:

- Kính Thanh! Cái đầu thông minh kia đã hại ngươi rồi đấy!

Kinh Thanh đứng phắt dậy, bước đến rầu rĩ nói:

- Đại ca không tin tiểu đệ thì cứ xuất thủ! Thanh này thực lòng yêu mến, muốn giúp đại ca báo phục thù sâu để đền ơn tri ngộ! Tiểu đệ tuy yếu đuối nhưng lão luyện giang hồ, dẫu đầm rồng hang hổ cũng coi thường!

Ánh mắt thành thực, thiết tha của gã khiến chàng rúng động, thở dài hỏi lại:

- Ngươi theo ta giết hại mệnh quan của triều đình, không sợ tội tru di hay sao?

Kính Thanh biết chàng đã mềm lòng, liền cười hăng hắc:

- Tiểu đệ đầu đầy mưu ma chước quỷ hành sự lại chu đáo, thận mật đến mức quỷ thần không hay biết thì còn sợ gì nữa!

Và gã quì ngay xuống lạy chàng tám lạy cất tiếng thề thốt:

- Mộc Kính Thanh tôi xin Hoàng thiên Hậu thổ chứng giám cho tấm lòng thành đối với nghĩa huynh Nam Cung Giao. Tuy chẳng đồng sinh nhưng thề đồng tử, nếu sinh lòng phản trắc sẽ chết chẳng toàn thây!

Nam Cung Giao biết chẳng thể chối từ việc kết nghĩa, cũng quì xuống đáp lễ! Chàng thấy mắt đối phương ướt rượt vì cảm động, cũng nghe nao nao trong dạ, liền ôm đứa em xấu xí, tinh quái và nói:

- Cảm tạ hiền đệ!

Chàng chợt phát hiện đối phương mềm mại như nữ nhân, bèn trách móc:

- Chắc ngươi lười biếng luyện công, suốt ngày lăn lóc chốn kỹ viện nên thân thể mềm nhão, chẳng xứng đáng là bậc trượng phu!

Kính Thanh giãy giụa thoát khỏi vòng tay chàng, cười đáp:

- Đúng là tiểu đệ hơi háo sắc, nhưng việc cơ bắp thiếu rắn chắc, là do Nhuyễn Cốt tâm pháp gia truyền. Nếu cứng cáp như đại ca thì làm sao chui lọt qua song cửa nhà người ta được?

Nam Cung Giao phì cười:

- Công phu đạo chích của ngươi xem ra cũng cao cường, cớ sao lại rỗng túi như vậy?

Kính Thanh nhơn nhơn đắc ý:

- Tiểu đệ là hiệp đạo, lấy của người giàu cứu tế người nghèo, không nghĩ đến bản thân nên mới túng thiếu!

Nam Cung Giao cau mày:

- Nếu đem tang vật phân phát cho họ chẳng khác gì vu oan giá họa ư?

Kính Thanh cười nắc nẻ:

- Đại ca quả là khờ khạo! Đương nhiên là tiểu đệ có chỗ tiêu thụ vàng ngọc, biến nó thành tiền bạc chứ! Ngay trong thành Tô Châu này cũng có kẻ chuyên tiêu thụ của gian, người thứ nhất là lão Đặng Kiệm, người thứ hai là Hà Tam Nương. Tiểu đệ không tin họ Đặng nên chưa bao giờ giao dịch với lão ta!

Nam Cung Giao giật mình dò hỏi:

- Tư cách họ Đặng thế nào?

Kính Thanh ra vẻ quan trọng, trợn mắt nói:

- Đặng Kiệm gian xảo như hồ ly, liên kết với bọn quan lại Giang Tô mà làm giàu. Lão vốn là Bang trưởng của người An Nam, song lại bóc lột đồng hương chẳng chút xót thương. Lão trả lương họ rẻ mạt và còn cắt xén ngân quỹ của bang!

Nam Cung Giao nghe lửa giận bừng lên, cười nhạt hỏi:

- Vì sao ngươi lại biết rõ như vậy?

Kính Thanh bực bội vì bị nghi ngờ:

- Trong thành này có một xóm nghèo gồm rất nhiều người Giao Châu. Tiểu đệ quen với một phụ nhân bán cháo lòng được bà ta kể cho nghe! Bà ta rất tốt bụng, mỗi lúc không tiền, tiều đệ thường đến ấy ăn chịu? Một người như thế thì nói xấu Đặng Kiệm làm gì?

Nam Cung Giao gật gù:

- Hay lắm! Ta nghe nói người An Nam nấu cháo lòng heo rất ngon, anh em ta sẽ điểm tâm bằng món ấy!

Kính Thanh tán thành:

- Sẵn dịp, tiểu đệ sẽ mang số châu báu này đi đổi thành ngân phiếu cho tiện!

Nam Cung Giao liền lấy cả số bảo ngọc của mình đưa cho gã.

Kính Thanh cười khanh khách:

- Phải chăng đây là tài sản của lão Quách thượng thư?

Nam Cung Giao tủm tỉm đáp:

- Ta cũng là một hiệp đạo như ngươi vậy!

Hai người tới lữ điếm đi về hướng Đông thành, hơn khắc sau đến một xóm nhỏ nghèo nàn, nhà cửa lụp xụp vật liệu chỉ toàn tre trúc và gỗ lá.

Đường đi ở khu vực này không được lót đá nên gồ ghề, đầy những ổ gà do cơn mưa hạ để lại. Có dăm đứa tiểu đồng đang chơi trò đánh đáo, nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ, pha trộn giữa tiếng Hán và tiếng An Nam!

Nam Cung Giao nghe lòng rộn lên cảm giác ấm cúng, cứ như được về thăm quê mẹ. Đồng thời, vẻ nhếch nhách, rách rưới của lũ trẻ khiến chàng phẫn nộ khi nghĩ đến cảnh giầu sang tột bực của Đặng Kiệm! Với tài sản kếch sù hiện nay, lão thừa sức tặng cho những đứa bé tội nghiệp kia một chiếc áo bông lành lặn ấp áp!

Thế mà lão lại còn ăn cắp những đồng tiền mồ hôi nước mắt của cha mẹ chúng, hành vi ấy không thể tha thứ được!

Quán cháo lòng của Nguyễn Đại Nương nằm ở giữa xóm, đối diện với giếng nước chung. Cơ ngơi của bà khá khang trang vì mái được lợp ngói, sàn lát gạch nung, vách ván, chung quanh trổ cửa sổ rộng, có lẽ món cháo lòng và bầu rượu đã giúp thực khách chống lạnh nên vẫn mở toang hoác để đón gió Đông.

Trên nền gạch vuông vức mỗi bề hai trượng này bày biện tám chiếc bàn thấp, mỗi bàn có thể ngồi được bốn người.

Nồi cháo đang nghi ngút hơi nóng kia được đặt ngay cạnh cửa ra vào, phía sau là một phụ nữ tuổi trạc năm mươi, mập mạp, phúc hậu.

Nguyễn Đại Nương luôn tươi cười, ngay cả lúc khách bảo rằng mình ăn chịu!

Phụ giúp bà là một lão già chính gốc Hán tộc và một thiếu nữ tuổi đôi chín. Họ là chồng và con gái của Đại Nương!

Thấy Kính Thanh, Đại Nương hớn hở chào:

- Đã hơn tháng nay không thấy thiếu hiệp đến ăn cháo!

Bà chợt khựng lại, nhìn chăm chú chàng trai lạ mặt đi cạnh họ Mộc.

Dường như ở chàng có những nét quen thuộc với bà?

Kính Thanh cười khanh khách:

- Tại hạ còn thiếu Đại Nương ba mươi bảy tô cháo và hai mươi tám bình rượu, đành phải đi xa, kiếm bạc về thanh toán!

Nguyễn Đại Nương mỉm cười:

- Có đáng bao nhiêu đâu mà thiếu hiệp phải bận tâm.

Chồng con của Đại Nương cũng lộ vẻ mừng rỡ.

Dương lão trợn mắt nạt:

- Ngươi không đến đây tán gẫu khiến lão phu buồn muốn chết được!

Còn cô gái Dương Tiểu Tĩnh thì đỏ mặt liếc Kính Thanh bằng cặp mắt hân hoan.

Nam Cung Giao cười thầm, tự hỏi gã họ Mộc xấu xí tàn tật này có gì hay ho mà lại được nhiều người yêu mến như vậy?

Hai người ngồi xuống, sì sụp ăn cháo, và chiêu thêm vài ngụm rượu cho ấm dạ.

Thực khách ở đây có cả người Hán vì đa số các nhà trong xóm đều hình thành bởi cuộc hôn phối giữa hai dân tộc.

Người Trung Hoa có khả năng đồng hóa rất mạnh, song người Giao Châu lại luôn sống chết gìn giữ bản sắc, cho nên đám đàn ông người Hán trong xóm nói tiếng An Nam rất sõi!

Điều này chứng tỏ nữ nhân Giao Chỉ giỏi nghề dạy chồng hơn nữ nhân Trung Hoa!

Chính phe nữ giới của mỗi dân tộc mới thực sự có công lao trong việc luôn giữ nguồn cội! Họ ru con, dạy con bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, kể cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích, nói về các danh nhân, anh hùng trong lịch sử, miêu tả cảnh vật nơi cố quận xa xăm. Do vậy, dù mang hai giòng máu nhưng những đứa trẻ có mẹ là người Giao Chỉ mãi mãi hướng về phương Nam như loài chim Việt chỉ làm tổ ở cành Nam.

Nam Cung Giao cũng ở trong trường hợp này, nhất là khi chàng có hai ngón chân cái đặc biệt của người Giao Chỉ.

Ăn xong, chàng nhâm nhi hớp rượu gạo, miên man suy nghĩ và buột miệng ngâm:

Hồ mã tê bắc phong
Việt điểu sào Nam chi!

Dịch:

Ngựa hồ hí gió bấc
Chim việt ở cành Nam!

Bàn chàng gần vị trí nồi cháo nên Nguyễn Đại Nương nghe thấy. Bà tủm tỉm hỏi:

- Thiếu hiệp quê ở đâu mà lại ngâm hai câu thơ ấy?

Chàng kính cẩn đáp:

- Bẩm Đại Nương! Tại hạ quê ở Cán Châu, Quảng Đông!

Ánh mắt bà chìm xuống, lộ vẻ thất vọng!

Kính Thanh cạn chung, gãi đầu:

- Chết thực! Tại hạ vì quá mãi ăn cháo nên quên không giới thiệu vị nghĩa huynh của mình với đại thúc, đại nương. Đây là Nam Cung đại ca tên Giao!

Họ Nam Cung thuộc nòi Hán tộc chính gốc nên Nguyễn Đại Nương chẳng hỏi thêm.

Bỗng từ ngoài có khách mới bước vào. Lão già võ phục đen bạc phếch này tuổi độ sáu mươi, có thân hình vạm vỡ, to ngang, hông đeo đơn đao, tướng mạo rất oai phong. Tóc lão hói trụi chỉ còn ít sợi lưa thưa quanh đầu.

Mắt lão dài nhỏ, mũi lân to và đỏ ứng, miệng rộng để lộ hàm răng trắng nhớn chắc khỏe!

Lão nhân ngồi xuống bên một bàn trống, cao giọng gọi bằng tiếng An Nam:

- Một tô cháo lòng!

Cả quán ôm bụng cười vang vì họ đều hiểu tiếng Giao Châu.

Lão già hói kia đã phát âm sai chữ lòng thành chữ gì thì chư vị độc giả tự hiểu lấy.

Lão nhân hói đầu bực bội gắt:

- Làm gì mà các ngươi cười hô hố như vậy? Ở đây bán cháo lòng thì lão phu gọi cháo lòng chứ sao?

Sự lập đi lập lại âm ngữ gợi cảm kia đã khiến mọi người càng cười nôn ruột.

Đám nữ nhân đỏ mặt tía tai chẳng dám ngẩng lên.

Nguyễn Đại Nương vui vẻ hỏi:

- Không hay lão huynh học tiếng An Nam ở đâu vậy?

Lão hậm hực đáp:

- Lão phu quen mụ già bán rượu ở cửa Nam thành đã nửa năm nay, cố công học nói tiếng Giao Châu để cưới mụ ta!

Kính Thanh cười hì hì:

- Vậy phải chăng đây là lần đầu tiên các hạ đi ăn cháo lòng?

Lão nhân gật đầu:

- Đúng thế! Hôm qua lão phu mới được biết đến danh tiếng của quán cháo này!

Lão ngập ngừng, bẽn lẽn nói tiếp:

- Lão phu nghe nói nới đây có bán chịu, chừng nào trả cũng được phải không?

Vẻ mặt ngượng ngùng, áy náy của lão trông thật đáng thương, thực khách lại cười! Thấy tội nghiệp, Nguyễn Đại Nương hiền hòa nói:

- Lão huynh cứ tự nhiên ăn uống, khi nào có tiền thì mang đến trả cho thiếp cũng được!

Lão nhân đầu hói mừng rỡ đáp:

- Thế thì phiền bà chủ cho thêm một bình rượu nhỏ và một dĩa... lòng... riêng!

Lão đã ngập ngừng, cố sửa từ lòng cho giống mọi người nhưng không thành công!

Kính Thanh phì cười:

- Chẳng thà lão nói tiếng Hán cho xong, hà tất phải khổ sở như vậy?

Gã chợt nhớ ra điều gì đó, quay lại hỏi Nam Cung Giao:

- Dường như đại ca cũng biết tiếng An Nam nên mới cười hoài như vậy?

Nam Cung Giao vội chống chế:

- Ở Cán Châu cũng có người An Nam! Thuở nhỏ ta chơi với lũ trẻ ấy nên biết được vài từ!

Chỉ nửa khắc sau, lão nhân hói đã ăn sạch tô cháo và dĩa lòng, song vẫn tỏ vẻ thòm thèm, liếc trộm Nguyễn Đại Nương.

Nam Cung Giao thấy vậy cười bảo:

- Các hạ cứ việc ăn uống thỏa thích, tại hạ sẽ chiêu đãi!

Đôi mắt như sưng mọng kìa sáng rực lên. Lão cười khà khà bước sang ngồi với mạnh thường quân, vòng tay nói:

- Tứ hải giai huynh đệ! Lão phu là Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương, đất Hà Bắc, vui mừng được kết giao với thiếu hiệp!

Kính Thanh lộ vẻ kinh dị:

- Các hạ oai trấn Hà Bắc sao lại lưu lạc, trầm luân ở chốn này?

Sách Hán Xương phì cười:

- Oai trấn cái khỉ khô gì! Lão phu bị Hồ bang truy sát đành phải ẩn thân đất Tô Châu!

Nam Cung Giao nhíu mày hỏi:

- Nghe nói Bang chủ Hồ bang là Dạ Hồ Sài Tốn đã bị giết ở Nam Kinh chẳng lẻ Bang hội ấy vẫn còn cao thủ lợi hại?

Cuồng Vũ lão nghiêm giọng:

- Sài Tốn chỉ có hư vị mà thôi! Sau lưng lão là Hồ Ly song tiên đại ma đầu khét tiếng võ lâm, võ công cực kỳ lợi hại! Lão phu nghe bằng hữu từ phương Bắc xuống kể rằng đương kim Bang chủ là Sài Tuấn, con trai của Dạ Hồ! Gã này được Song tiên yêu mến, cho uống kỳ trân dị dược nên bản lãnh còn cao siêu hơn cả cha là Sài Tốn! Hiện nay, Hồ bang đã dời trọng địa về núi Trịnh Sơn ở phía Nam Hoàng Hà, cách Trịnh Châu trăm dặm về hướng Đông Nam!

Thực khách thưa dần, rốt cuộc chỉ còn lại bàn của Nam Cung Giao.

Nguyễn Đại Nương đích thân bưng đến tặng một dĩa tim gan. Bà nhìn chàng bằng ánh mắt nhu hòa mà nói:

- Dung mạo Nam Cung thiếu hiệp rất giống một người quen cũ của tiện phụ khiến lòng này bùi ngùi nhớ lại chuyện xưa!

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Chẳng hay người quen cũ của Đại Nương là ai vậy?

Nguyễn Đại Nương hạ giọng:

- Hai mươi mấy năm trước, tiện phụ là nữ binh dưới trướng An Nam nữ tướng quân Đặng Trinh Tâm! Tiếc rằng Đặng Tiểu thư đã trầm mình giữa biển, nếu không tiện phụ sẽ cho rằng thiếu hiệp là con của bà ấy!

Kính Thanh thoáng giật mình, hỏi một câu là lạ:

- Nguyễn Đại Nương! Phải chăng Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long ngày xưa đã từng có mặt trong đoàn quân chinh phạt An Nam?

Nguyễn Đại Nương đanh mặt đáp:

- Đúng vậy! Lão ta còn là người áp giải tù binh về Trung Hoa. Trên đường đi, Mạc Tôn Long cùng một số võ quan nữa đã cưỡng hiếp khắp lượt các nữ tù nhân, và hành hạ vua quan An Nam. Đặng Tiểu thư chết cũng vì không chịu ô uế tấm thân bởi bọn chó má ấy!

Kính Thanh nghe xong vỗ đùi lẩm bẩm:

- Ta đã hiểu rồi!

Nam Cung Giao biết gã thông tuệ tuyệt luân, đã đoán ra lai lịch mình.

Chàng vội hắng giọng để cảnh cáo gã chớ tiết lộ!

Kính Thanh cười đắc ý, nói lảng sang chuyện khác.

Khi biết Nguyễn Đại Nương là thủ hạ của mẹ mình, Nam Cung Giao hiểu rằng bà đã nói thực về nhân chính của Đặng Kiệm.

Chàng thề sẽ trừng phạt lão Việt gian kia, trả lại đạo công bằng cho những người đồng hương khốn khổ!

Nhưng trước tiên, chàng phải giúp đỡ lão Cuồng Vũ Đao tội nghiệp này cái đã!

Nam Cung Giao lấy ra tờ ngân phiếu năm trăm lượng bạc, đặt xuống trước mắt Sách Hán Xương, từ tốn nói:

- Mong tiền bối vì tình đồng đạo mà hạ cố nhận số bạc mọn này. Khi nào thiếu thốn, tại hạ sẽ đến hỏi xin lại!

Sách Hán Xương ngơ ngẩn nhìn con số ngũ bách lượng, bối rối đáp:

- Lão phu tứ cố vô thân, nghề ngỗng chẳng có, dẫu được số bạc này chắc cũng không xài được bao lâu. Hay là thiếu hiệp cho phép lão phu được tháp tùng kiếm cơm qua ngày?

Mộc Kính Thanh cướp lời huynh trưởng, cười hăng hắc:

- Sách lão quả là khôn ngoan! Đại ca ta là người trọng nghĩa khinh tài, tất sẽ lấy lễ quốc sĩ mà đối xử với lão! Đừng nói no cơm ấm áo, mà phải là bạc vàng rủng rẻn, oai danh lừng lẫy võ lâm!

Sách Hán Xương mở cờ trong bụng, nhưng vẫn cố giữ tư cách, trịnh trọng nói:

- Lão phu sẽ đem pho Cuồng Vũ đao pháp truyền lại cho Nam Cung thiếu hiệp để đền ơn tri ngộ!

Kính Thanh cười sằng sặc:

- Lão tưởng võ công của mình hơn được đại ca ta ư?




Đêm xuống, có ba bóng đen áp sát tường vây Đặng gia trang.

Họ vượt tường, một ẩn lại nơi vườn hoa, hai đi tiếp vào sâu bên trong.

Sau vụ án giết người cướp của ở dinh Mạc tri phủ, các nhà đại phú thành Tô Châu rất sợ hãi, cho gia đinh canh phòng cẩn mật.

Đặng Kiệm giàu nhứt Tô Châu, có tình thâm giao với quan lại địa phương, nên đã được Tổng Binh cho quân sĩ tuần tra vòng ngoài Đặng gia trang.

Bên trong, bầy hổ ngao tám con cũng được thả cửa để cảnh giới.

Từ thời nhà Nguyên, việc giao dịch buôn bán của Trung Hoa với các nước phương Tây đã rất phồn thịnh.

Hàng hóa, vật dụng của Hà Lan, Bồ Đào Nha... rất được bọn nhà giàu ưa chuộng, kể cả chó, mèo.

Chó Tây Dương to lớn, hung dữ, hình dạng giống loài sói, ít sủa mà chỉ âm thầm tấn công kẻ đột nhập.

Nhưng chó nào cũng là chó, và đều thích ăn ngon!

Mộc Kính Thanh là cao thủ thượng thừa trong nghề đạo chích đã chuẩn bị sẵn những miếng thịt bò tẩm thuốc, loại thuốc đặc biệt này có mùi vị rất hấp dẫn và chỉ khiến cho lũ Tây khuyễn rơi vào trạng thái lơ mơ, lười biếng.

Bề ngoài, trông chúng vẫn bình thường, vẫn đi lại được nhưng thực ra, dẫu có ai đá vào mõm, chúng cũng chẳng thèm phẫn nộ.

Do thế, dám gia đinh chỉ chửi lũ chó Tây vô dụng chứ không biết rằng chúng đã bị hạ thủ!

Có tật giật mình, Đặng Kiệm không tốt với đồng hương nên chẳng dám tin tưởng họ. Đám gia đinh trong nhà lão toàn là đám con cháu nghèo bên vợ, công nhân An Nam thì làm việc ở kho xưởng, cách xa Đặng gia trang!

Đêm cuối tháng không trăng nên mới giữa canh hai mà Kính Thanh đã dám đưa Nam Cung Giao đến mục tiêu.

Đây chính là đạo lý cao siêu của nghề trộm cắp, vì lúc này còn nhiều người chưa ngủ, sinh hoạt ồn ào nên tinh thần cảnh giác lơi lỏng. Song, chỉ có những kẻ khinh công xuất chúng mới dám lợi dụng sơ hở này.

May thay, dù chẳng phải phi tặc nhưng thân pháp của Nam Cung Giao cũng nhanh nhẹn, êm ái chẳng kém gì Mộc Kính Thanh. Chàng hồi hộp bám theo sát nút, lòng vô cùng thán phục thủ đoạn lão luyện của y!

Hai người lướt đi như cánh dơi đêm, chẳng hề khua động mái ngói dưới chân, cuối cùng, họ đã có mặt trên nóc đại sảnh, nơi mà Đặng Kiệm đang uống trà, trò chuyện với khách!

Họ Đặng nhẫn tâm bóc lột đồng hương tất chẳng thể là người rộng rãi. Nghĩa là lão keo kiệt đến mức vắt cổ chày ra nước! Dĩ nhiên, lão chẳng dại gì thắp sáng hết cả tòa đại sảnh rộng mênh mông, chỉ cho đốt một ngọn tọa đăng, đặt ngay trên bàn.

Thế là Kính Thanh yên tâm dẫn nghĩa huynh nhảy xuống đất, núp cạnh cứa sổ mà nghe ngóng, quan sát.

Nhận ra khách là hai lão áo nâu, gầy gầy, mặt xương xẩu, lưỡng quyền cao, còn miệng thì nhọn hoắt, Kính Thanh kinh hãi thì thầm:

- Đại ca! Không ngờ Đặng Kiệm lại mời cả Địa Thượng Nhị ở đất Phúc Châu đến bảo vệ cho mình. Hai lão này bản lãnh cao cường, khét tiếng tàn ác và dâm đãng. Tám năm qua họ biệt tăm, không ngờ lại xuất hiện ở đây.

Nam Cung Giao kiến văn kém cỏi chẳng biết ai là ai, lại như cừu non không sợ cọp nên thản nhiên cười đáp:

- Nếu bị phát hiện thì ta sẽ cầm chân họ để ngươi đào tẩu! Dưới đất thì không cần thiên lôi, có lẽ hai lão ấy sẽ vui vẻ về trời nhậm chức!

Kính Thanh lo lắng khuyên can:

- Đại ca đừng quá tự tôn mà uổng mạng. Võ công mỗi người trong Nhị Lôi đàn đều tương đương với Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương. Khi hai anh em họ liên thủ thì càng bội phần lợi hại. Ngay Minh chủ võ lâm là Tổng Trấn Vương Trung Hưng còn không làm gì được!

Nghe giọng khẩn thiết, đầy vẻ quan hoài, Nam Cung Giao cảm động:

- Thanh đệ đừng lo! Ta sẽ đào tẩu ngay khi thấy nguy, chứ chẳng dại mà liều lĩnh làm gì!

Bỗng trong kia, Đặng Kiệm phấn khởi cao giọng:

- Tứ Hải hội mau mắn đáp ứng lời thĩnh cầu của lão phu, cử nhị vị hộ pháp đến đây, khiến Đặng này muôn vàn cảm kích. Quả không uổng công lão phu đóng góp cho ngân quỹ của quý Hội!

Kính Thanh vội giải thích:

- Đại ca! Tứ Hải hội là một tổ chức thần bí mới xuất đầu lộ diện độ bảy năm nay, hùng cứ các phủ phía Nam Trường Giang. Họ không có ác tích rõ rệt, chỉ âm thầm bành trướng, thu thuế bảo kê các ngành kinh doanh. Nay hai lão ác ma kia trở thành hộ pháp đủ chứng tỏ Tứ Hải hội chẳng ra gì!

Nam Cung Giao cười mát:

- Chắc ngươi chuyên nấp dưới gầm giường, rình nghe chuyện thiên hạ nên mới từng tuổi này mà cái gì cũng biết!

Hai người dùng công phu Ngũ Ngữ truyền âm mà trò chuyện nên rất thoải mái, không sợ đối phương nghe thấy!

Lúc này, Đặng Kiệm và Địa Thượng Nhị Lôi đã rời khách sảnh, về phòng nghỉ ngơi.

Anh em Nam Cung Giao vội nhảy lên mái ngói, quan sát xem họ Đặng ngủ ở đâu. Hai người không có ý giết Đặng Kiệm vì tội lỗi của lão chưa đáng phải chết.

Nam Cung Giao sẽ gởi một bức thư cảnh tỉnh, nếu lão không thay đổi tâm tính mới trừng trị.

Đặng Kiệm vào một phòng lớn trong khu hậu viện, còn Địa Thượng Nhị Lôi cũng ở cách đấy không xa.

Họ Đặng khóa chặt cửa ra vào, bỏ chìa vào túi, cẩn thận xoay lắc nắm cửa bằng đồng sáng láng. Đây là loại khóa của người Hà Lan, đắt hơn vàng, nên lão cho rằng đám dạo chích Trung Hoa không thể nào mở nổi.

Nhưng sáng hôm sau, lúc tỉnh giấc, Đặng Kiệm phát hiện trên gối mình có một mảnh giấy hoa tiên, ghi hai dòng chữ:

Nhân bất nhân nan thọ,
Phú quí tư cố hương.

Đặng Kiệm toát mồ hôi lạnh vì hiểu rõ thâm ý của lời cảnh cáo:

Người bất nhân chẳng thọ,
Giàu sang nhớ quê xưa.

Hai câu thơ này ám chỉ thái độ tham lam hà khắc của lão đối với đồng hương, và dọa sẽ lấy mạng.

Đặng Kiệm rảo bước ra kiểm tra ổ khóa cửa trị giá năm chục lượng vàng, chán nản thở dài.

Nó vẫn còn nguyên vẹn không hề có dấu cậy phá, cứ như đêm qua lão quên khóa vậy.

Đặng Kiệm ngồi thừ trên ghế, đăm chiêu suy nghĩ rất lâu, lão nhớ đến cái chết của Nam Kinh Binh bộ Thượng thư Quách Tường An và Tri phủ Giang Tô Mạc Tôn Long, liền rùng mình lẩm bẩm:

- Chẳng lẽ Đặng biểu cô còn sống và đang tiến hành việc báo thù? Chỉ mình bà mới có động cơ sát hại hai vị quan lớn kia, và bênh vực người An Nam!

Lão nghĩ đến Đặng Trinh Tâm vì bà có võ nghệ cao siêu, hơn nữa nét chữ trên tờ giấy hoa tiên mềm mại, uyển chuyển, chẳng thể là của nam nhân được. Lão cũng hiểu rằng tính tình Trinh Tâm cương liệt sắt đá tất sẽ chẳng tha mạng mình lần thứ hai!

Cái chết lởn vởn đã khiến lão phải suy xét lại hành vi của mình, lòng thầm hổ thẹn. Họ Đặng quyết sẽ hành động ngay để chứng tỏ cho vị biểu cô nóng tính, đáng sợ kia nhìn thấy.

Ngay sáng hôm ấy, lão đến xưởng quạt, tăng gấp đôi số lương cho tất cả công nhân.

Người Giao Châu rất khéo tay, kiên nhẫn nên đã sản xuất ra những cây quạt xếp tinh xảo, xinh đẹp bằng đủ loại nguyên liệu như tre, gỗ, đồi mồi, ngà voi...

Quạt của Tô Châu lừng danh thiên hạ, được cả người Tây Dương ưa chuộng, và sản phẩm của Đặng gia là nổi tiếng nhất.

Sau đó, Đặng Kiệm còn đích thân đến thăm hỏi những xóm nghèo Giao Châu, tặng mỗi nhà mười lạng bạch ngân ăn tết, và hứa sẽ tận tâm giúp đỡ đồng hương khi họ cần đến. Ngay cả việc nộp tiền cho ngân quĩ của Bang, lão cũng hủy bỏ, xin được cáng đáng hết!

Người Giao Châu ở Tô Châu hết lời ca ngợi cử chỉ nhân đức của Đặng Kiệm, nhưng lòng thầm nghi hoặc, tự hỏi vì sao?

Non sông dễ đổi, bản tánh rất khó dời, phải vì nguyên nhân trọng đại nào đó nên một kẻ tham lam, bủn xin như Đặng Kiệm mới đột nhiên trở thành đại thiện nhân như vậy?

Có người đoán rằng lão sợ chết!

Chỉ một mình Nguyễn Đại Nương ngờ ngợ đoán ra ẩn tình, nhưng không dám đoan chắc! Bà khao khát muốn gặp lại Nam Cung Giao, song chàng đã cùng Kính Thanh và Sách lão rời khỏi Tô Châu.


Sáng mùng hai, ba người ra cửa thành hướng Bắc. Tang vật đã được bán đi, ngân phiếu giấu kín trong người nên họ qua mắt bọn quan quân rất dễ dàng. Hơn nữa việc Kính Thanh lại quen biết với gã Lãnh binh trấn giữ cửa này.

Trời xam xám, những bông tuyết đầu mùa nhỏ như hoa gạo bay lất phất trong không gian, bám vào mặt mũi, y phục mọi người. Cảnh tượng tuy hơi tiêu điều, song vẫn có nét đẹp riêng của mùa đông.

Kính Thanh vui vẻ nói:

- Đại ca! Lát nữa chúng ta sẽ ghé Hổ Khâu xem phong cảnh! Thắng tĩnh ấy đẹp nhứt trong những ngày đầu đông!

Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương chắc đang đau lưng khi phải chia tay với mụ già bán rượu ở cửa Đông nên càu nhàu:

- Mồ mả thì có gì mà đẹp! Thời tiết này mà ăn cháo nóng và uống rượu là tuyệt nhất!

Nhưng thực ra, Hổ Khâu chính là đệ nhất danh lam nước Ngô, nằm cách thành Tô Châu hơn mười dặm về phía Tây Bắc.

Hổ Khâu! Một gò cao, nơi Ngô Phù Sai chôn cha là Hạp Lự Chôn được ba ngày, có em là Bạch Hổ đến nằm phục ở cạnh mồ, nên gò này mới có tên là Hổ Khâu.

Trên đỉnh gò Hổ có ngọn tháp cao, xây từ thời nhà Tùy. Còn trước gò có một hồ nước nhỏ tên gọi Kiếm trì. Song không phải chỉ có thế, toàn khu vực Hổ Khâu là một vườn hoa bát ngát. Với những hàng cổ thụ già nua mấy trăm năm tuổi. Mùa nào trong năm, nơi đây cũng ngào ngạt sắc hương của hoa.

Nam Cung Giao trong mấy ngày qua chỉ lo việc báo thù nên không có dịp ngoạn cảnh, giờ phấn khởi thúc ngựa theo Kính Thanh.

Hai khắc sau, ba người đã nhìn thấy ngọn Cổ tháp trên đỉnh gò Hổ, thấp thoáng trong làn tuyết mỏng, chỉ cần rẽ trái đi thêm hơn dặm là đến nơi.

Nhưng phía trước có một đoàn kỵ sĩ đông độ hơn hai chục, đi ngược chiều đến.

Dẫn đầu toán nhân mã ấy là ba lão nhân mũ lông đen, áo cừu ngắn để lộ bộ võ phục nâu sậm, lưng đeo trường kiếm. Chín người còn lại nhất loạt Bạch y, hông cài đơn đao.

Cuồng Vũ Đao Sách Hán Xương đã nhận ra lai lịch đối phương, nhăn mặt nói:

- Bọn họ là người của Hồ bang, đến đây tìm lão phu! Hai người cứ đi trước đi!

Kính Thanh cười xòa:

- Hàm Đan tam kiếm có gì mà đáng ngại? Chúng ta cứ đánh một trận cho giãn gân cốt!

Nam Cung Giao vỗ bụng:

- Nếu biết sáng nay phải đánh nhau, lúc nãy ta đã ăn thêm vài chục cái bánh bao cho chắc dạ!

Một người một câu chẳng giống nhau, nhưng hàm ý quyết chiến, khiến Cuồng Vũ Đao cảm kích cười dài.

Tiếng cười của lão đầy hào khí, thanh thản vượt ngoài sinh tử.

Lúc này, đoàn nhân mã Hồ bang đã dừng lại...

Người có võ nghệ cao cường như Hàm Đan tam kiếm tất nhãn lực phải rất tinh anh, đã sớm nhận diện được kẻ thù, dù hôm nay Cuồng Vũ Đao oai phong chỉnh tề trong bộ võ phục gấm xanh, áo mũ lông cừu trắng tuyết.

Hàm Đan tam kiếm đều ở tuổi lục tuần, mặt tròn đầy, mắt nhó, mũ ưng, môi mỏng. Họ là anh em ruột, cách nhau chỉ hai, ba tuổi.

Kính Thanh nhanh nhẩu kể:

- Đại ca! Lão râu dài đứng giữa là lão Đại Mạc Vi Hầu, lão tai vểnh là lão Nhị Mạc Đắc Khoa, còn lão rỗ hoa là em út Mạc Quan Tung.

Phe đối phương đã vây chặt ba con mồi, Nhất kiếm Mạc Vi Hầu gầm lên:

- Sách Hán Xương! Lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, nên lão mới xui xẻo gặp bọn ta ở đây. Mau bó tay chịu trói.

Theo khẩu khí này thì họ đến đây không phải vì họ Sách, chỉ tình cờ gặp gỡ mà thôi

Cuồng Vũ Đao rủa thầm vận đen, cười sằng sặc:

- Chính các ngươi mới là những kẻ kém may mắn!

Dứt lời, lão tung mình khỏi lưng ngựa, chụp lưỡi đao xuống đầu Mạc Vi Hầu.

Nam Cung Giao và Mộc Kính Thanh cũng nhất tề tấn công hai lão còn lại trong Tam Kiếm.

Chiến đấu trên lưng ngựa chẳng phải thói quen của khách võ lâm, nên Tam kiếm cũng rời yên


Tiếu ngạo Trung Hoa Empty

Sponsored content



Level: Kinh nghiệm: %
Sinh mệnh: /100
Pháp lực: /100

Bài gửiTiêu đề: Re: Tiếu ngạo Trung Hoa

 

 

Tiếu ngạo Trung Hoa

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’- :: -‘๑’- Chuyên Mục Truyện -‘๑’- :: -‘๑’- Truyện chữ, tiểu thuyết -‘๑’--
Có Bài Mới Có bài mới đăngChưa Có Bài Mới Chưa có bài mới
Fixed and up by [A]dmin .
Copyright © 2007 - 2010, cHuYeNtOaN0912.fOrUm-vIeT.nEt .
Powered by phpBB2 - GNU General Public License. Host in France. Support by Forumotion.
Xem tốt nhất ở độ phần giải lớn hơn 1280x1024 và trình duyệt Firefox
Get Firefox Now Get Windows Media Player Now
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất